Tâm thần kinh

Acetylcholin chất hóa học trung gian dẫn truyền thần kinh tối quan trọng

Cây thông đất – một cây thuốc quý, hiếm được dùng điều trị chứng Teo não     Trong cơ thể của chúng ta, có rất nhiều chất hoá học quan trọng mà khi những chất này bị rối loạn (tăng lên hay giảm đi…) sẽ gây bệnh, nhiều khi còn đe doạ đến tính […]

Cây thông đất

Cây thông đất – một cây thuốc quý, hiếm được dùng điều trị chứng Teo não

    Trong cơ thể của chúng ta, có rất nhiều chất hoá học quan trọng mà khi những chất này bị rối loạn (tăng lên hay giảm đi…) sẽ gây bệnh, nhiều khi còn đe doạ đến tính mạng. Một trong những chất đó phải kể đến đầu tiên là Acetylcholin, đóng vai trò quá quan trọng trong việc dẫn truyền các xung động thần kinh, đảm bảo sự thông suốt từ não bộ đến tuỷ sống và đến tất cả các phần của cơ thể, để duy trì các chức năng sống còn của cơ thể. Khi Acetylcholin bị rối loan sẽ gây rất nhiều bệnh trong đó điển hình là các bệnh khó chữa (bệnh nan y) như  Alzheimer, Nhược cơ, rối loạn trí nhớ do Teo não và có thể cả Trầm cảm…

    Acetylcholin được phát hiện đầu tiên bởi Henry Hallett Dale, sau đó Otto Loewi đặt cho nó cái tên ban đầu là Vagustoff, được xác định là một Neutrotranmitter bắt nguồn từ nghiên cứu từ dây thần kinh X (dây phế vị), cả hai nhà khoa học này năm 1936 đã được giải Nobel về y học về ng trình khoa học sinh lý học của mình.

    Người ta thấy Acetylcholin có nhiều ở hành não, thân não, não trung gian, tiểu não, cầu não, võ não mà nhiều nhất lại ở vùng vận động (thuỳ trán), nó còn thấy ở tuỷ sống, các hạch thần kinh thực vật, ở các tận cùng thần kinh tiếp xúc với các cơ quan ngoại vi và cả trong tế bào ức chế.

   Acetylcholin là chất trung gian hoá học dẫn truyền các xung động thần kinh có mặt trong hầu hết các Sinap thần kinh trung ương, thần kinh thực vật, thần kinh – cơ. Acetylcholin được sản xuất ra từ các tế bào thần kinh và các tế bào thần kinh này được gọi là tế bào thần kinh Cholinergic.

   Trong hệ thống thần kinh ngoại vi (gồm thần kinh ngoại biên và hệ thần kinh thực vật), Acetylcholin đóng vai trò trong vận động của hệ cơ – xương, cũng như của cơ trơn và cơ tim. Acetylcholin có tầm quan trọng trong cơ chế gây bệnh Nhược cơ, nên các nghiên cứu để điều trị bệnh Nhược cơ thường dùng các chất ức chế men Cholinesterase để làm tăng tích tụ Acetylcholin gây kích thích liên tục các cơ bắp, làm giảm tình trạng “giả liệt” của bệnh.

   Trong hệ thống thần kinh trung ương người ta thấy Acetylcholin đóng một vai trò quan trọng các hoạt động cao cấp của vỏ não như các quá trình nhận thức, quá trình trí nhớ, chú ý… vì vậy Acetylcholin có liên quan chặt chẽ với bệnh Alzheimer. Năm 2011 Acetylcholin cũng đã được chứng minh thúc đẩy REM sleep (trong ng trình “hệ thống Cholinergic, EEG và ngủ”), gần đây người ta cho rằng sự gián đoạn Acetylcholin có thể là nguyên nhân chính gây bệnh trầm cảm.

   Acetylcholin được tổng hợp từ Choline và Acetylcoezyme A thông qua các enzyme Cholin acetyltranferase rồi bị đóng gói vào các túi màng bị ràng buộc. Sau sự xuất hiện của một tín hiệu thần kinh ở chấm dứt của một sợi trục, các túi màng hợp nhất với màng tế bào sẽ giải phóng ra Acetylcholin vào khe Sinap. Đối với các tín hiệu thần kinh để được dẫn truyền đi tiếp tục thì Acetylcholin phải khuyếch tán sang một tế bào thần kinh hoặc tế bào cơ bắp ở gần ngay đó, nơi nó sẽ ràng buộc và kích hoạt một protein thụ thể.

   Khi được giải phóng ra khỏi màng trước Sinap, Acetylcholin khuyếch tán nhanh qua khe Sinap và kết hợp với cơ quan thụ cảm ở màng của tế bào thần kinh thứ 2, còn gọi là màng sau Sinap, kết quả làm thay đổi tính thấm của màng, làm ion Natri đi vào sau Sinap gây khử cực màng tế bào thần kinh và làm xuất hiện điện thế sau Sinap. Điện thế này nhỏ hơn và kéo dài hơn so với xung thần kinh. Điện thế sau Sinap hoạt động không theo quy luật “tất cả hay không có gì” mà cường độ lớn nhỏ của nó phụ thuộc vào số lượng chất hoá học trung gian được giải phóng. Nồng độ Acetylcholin tác dụng lên màng sau Sinap không duy trì mức độ cao được lâu bởi khe Sinap có chứa những Enzyme Cholinesterase rất mạnh, chúng sẽ nhanh chóng phân huỷ Acetylcholin, giúp cho điện thế tĩnh (điện thế nghỉ) ở màng sau Sinap được hồi phục và “dọn sạch” Sinap, từ đó xung động tiếp sau mới được truyền qua, Acetylcholin ở dạng không hoạt động từ khe Sinap nhanh chóng quay lại tận cùng trước Sinap, ở đó sẽ có hoạt động trở lại và được tái sử dụng.

   Tác dụng của Acetylcholin giải phóng ra ở Sinap đã tạo ra sự khử cực ở màng sau Sinap, sản sinh ra xung động ở tế bào thần kinh sau Sinap. Các Sinap có chất trung gian hoá học Acetylcholin gọi là Synap kích thích và gây ra điện thế kích thích sau Sinap. Cùng tồn tại có Sinap ức chế, sản sinh ra các điện thế ức chế sau Sinap, tất nhiên chúng đòi hỏi các chất trung gian hoá học khác.

   Có hai loại chính của các thụ thể Cholinergic là Nicotinic và Muscarinic. Thụ thể Nicotinic được đặt ở các khớp thần kinh ở hai tế bào thần kinh và khớp thần kinh, giữa các tế bào thần kinh và các tế bào cơ xương, giúp cho quá trình hoạt động từ vỏ não đến hệ xương – cơ – khớp được hài hoà và thống nhất .

   Sau khi kích hoạt thụ thể Nicotinic hoạt động như một kênh cho sự chuyển động của các ion vào và ra khỏi các tế bào thần kinh, trực tiếp dẫn đến sự khử cực của các tế bào thần kinh.

   Thụ thể Muscarinic nằm ở các khớp thần kinh của dây thần kinh với các cơ trơn hoặc tim, kích hoạt một chuỗi các sự kiện hoá học gọi là truyền tín hiệu.

   Đối với một tế bào thần kinh Cholinergic để nhận được xung khác, Acetylcholin phải được sản xuất ra từ các thụ thể mà nó đã bị ràng buộc. Điều này sẽ chỉ xảy ra khi nồng độ Acetylcholin trong khe tiếp hợp là rất thấp. Nồng độ thấp của khớp thần kinh Acetylcholin có thể được duy trì thông qua một phản ứng thuỷ phân được xúc tác bởi Ezyme Acetylcholinesterase. Enzyme này thuỷ phân Acetylcholin thành axít Axetic và Cholin.

   Nếu hoạt động bị ức chế bởi Acetylcholinesterase nồng độ khớp thần kinh Acetylcholin sẽ vẫn cao hơn bình thường. Nếu ức chế này là không thể đảo ngược, như trong các trường hợp tiếp xúc với nhiều loại khí độc cho tế bào thần kinh, một số thuốc độc như thuốc trừ sâu… thì sẽ xuất hiện các hiện tượng như đổ mồ hôi, co thắt phế quản, co giật, liệt và có thể dẫn đến tử vong.

  Khi não bộ của chúng ta phải hoạt động quá mức hoặc không được nghỉ ngơi đúng mức, thì sẽ dẫn đến tình trạng các chất trung gian hoá học đặc biệt là Acetylcholin cạn kiệt hoặc thiếu hụt khiến não bộ bị mệt mỏi biểu hiện như giảm trí nhớ, kém tập trung, sử lý các tình huống khó khăn và chậm chạp. Vì vậy người ta khuyên những người hoạt động trí óc nhiều nên sử dụng các thảo dược có tác dụng làm cơ thể tăng tiết Acetylcholin. Viện Y học bản địa Việt Nam đã nghiên cứu thành ng và đưa vào sử dụng loại Neo-19, TRC, Nhược cơ Saman… để điều trị bệnh Alzheimer, Nhược cơ, Trầm cảm… theo xu hướng này.

Ngô Quang Trúc

Ts.Bs Cao cấp chuyên ngành Thần Kinh

Doctor SAMAN

Tác giả

Giới thiệu về tác giả

TS.BS Cao cấp Ngô Quang Trúc

Bình luận

Bấm vào đây để viết bình luận