Viêm xương khớp (viêm khớp, OA) là một trong những bệnh phổ biến nhất của hệ thống cơ xương và là một trong những nguyên nhân chính làm mất khả năng lao động sớm.

Các yếu tố làm bệnh phát triển có thể là các tác động cơ học, các đặc điểm sinh học (di truyền) của các cấu trúc khớp và các quá trình viêm. Các khớp chịu tải trọng tĩnh hoặc động lớn nhất thường hay bị tổn thương nhiều nhất.

Quá trình bệnh lý của viêm khớp (OA) trước hết được đặc trưng bởi sự thoái hóa của sụn trên các bề mặt khớp của xương. Những thay đổi mô học trong sụn tại đây liên quan đến hai thành phần chính của cấu trúc màng của màng bao sụn (matrix) là collagen và proteoglycans, chúng bộc lộ ngay ở các giai đoạn sớm của bệnh. Tổn thương mô khớp không giới hạn bởi sự phá hủy sụn và được đi kèm với viêm màng hoạt dịch. Các triệu chứng đặc trưng nhất của viêm khớp là đau khớp trong một tư thế đứng kéo dài, khi đi bộ, khi chạy, biến mất khi ở trạng thái nghỉ ngơi. Theo thời gian, suy giảm chức năng khớp, có thể dẫn đến tàn tật ở bệnh nhân. Ngày nay, thật đáng tiếc, khoa học y dược học chỉ có thể làm chậm sự tiến triển của viêm khớp.

Oleg Bortkevich

Giáo sư, tiến sỹ khoa học, bác sỹ Oleg Bortkevich

Sau đây, Viện Y Học Bản Địa xin được giới thiệu bài phỏng vấn của phóng viên báo y học điện tử health-ua.com với GS TSKH BS O.P. Bortkevich về vấn đề trên, ông là một nhà nghiên cứu lâu năm về khớp học của Ukraina. Bài viết được Ts Lô Quang Phú – một nhà nghiên cứu khoa học đã học tập và nghiên cứu tại Đại học tổng hợp Lômônôxốp Liên bang Nga gần 20 năm hiệu đính và biên dịch.

Phóng viên: Theo số liệu thống kê gần đây thì tỷ lệ mắc bệnh viêm khớp đang tăng lên trên toàn thế giới. Vậy quy mô của vấn đề như thế nào?

GS TSKH BS O.P. Bortkevich: Xu hướng tăng trong tỷ lệ mắc bệnh viêm khớp được nhìn thấy trên khắp thế giới, trong đó có Ukrain. Chỉ trong giai đoạn từ 1998 đến 2006, tỷ lệ này đã tăng hơn gấp đôi. Mặc dù tính phổ biến của viêm khớp gia tăng với tuổi tác, bệnh lý này không còn được coi là đặc quyền của người cao tuổi.

Phóng viên: Các nguyên tắc của việc điều trị hiện đại của viêm khớp là gì?
 

GS TSKH BS O.P. Bortkevich: Cơ sở của việc điều trị hiện đại của viêm khớp là cách tiếp cận bệnh sinh. Ảnh hưởng về cơ chế bệnh sinh đóng một vai trò quyết định trong việc xác định chiến thuật điều trị của bất kỳ bệnh lý, đặc biệt là viêm xương khớp. Các khuyến nghị của Hiệp hội chống thấp khớp Châu Âu (European League Antirheumatic, EULAR) các loại thuốc để điều trị bệnh nhân viêm khớp được phân loại thành những thuốc ảnh hưởng đến các triệu chứng của bệnh, và những thuốc có khả năng tác động sửa đổi cấu trúc và thay đổi quá trình của bệnh. Nhóm thứ hai bao gồm cái gọi là các thuốc bảo vệ sụn (chondroprotectors), sử dụng chúng có thể làm giảm cường độ đau và làm chậm sự tiến triển của bệnh. Theo phân loại được chấp nhận, chondroprotectors thuộc các loại thuốc tác dụng chậm triệu chứng dùng cho viêm xương khớp(symptomatic slow acting drugs for osteoarthritis – SYSADOA).

Trong số những chất có tác dụng bảo vệ sụn (chondroprotective), người ta phân biệt chondroitin sulfate và glucosamine hydrochloride. Đây là các thành phần tự nhiên của sụn, có trong thành phần của các proteoglycans và glycosaminoglycans của mô sụn. Những chất này có thể được sử dụng như những thuốc đơn lẻ hoặc trong các chế phẩm kết hợp chứa cả hai thành phần. Hiện nay, các loại thuốc dựa trên cơ sở chondroitin sulfate và glucosamine hydrochloride là các thuốc chuẩn cho việc điều trị viêm khớp.

Cũng có các loại thuốc không chứa các thành phần cấu trúc của sụn khớp và ảnh hưởng đến các thành phần khác của bệnh sinh của viêm khớp. Chúng bao gồm các chất ức chế các yếu tố gây viêm hắc búa nhất – yếu tố hoại tử khối u, có nguồn gốc thực vật (gừng chiết xuất và alpine), interleukin-1 (diacerein từ lô hội) và những chất khác. Các chế phẩm chứa các chất chiết xuất từ ​​các loại thực vật này có một cơ sở  chứng minh vững chắc và cũng có thể được đề nghị cho điều trị viêm khớp.

Phóng viên: Hãy kể cho chúng tôi biết về cơ chế tác động của các chất bảo vệ sụn (chondroprotectors). Việc ứng dụng chúng có tác động tích cực như thế nào?

GS TSKH BS O.P. Bortkevich: Cho đến nay, sự cần thiết ứng dụng trị liệu với một thuốc và kết hợp các thuốc glucosamine hydrochloride và chondroitin sulfate với nhau trong việc điều trị bệnh nhân với các bệnh thoái hóa khớp và cột sống là có cơ sở. Nó cho phép nhanh chóng đạt được hiệu lực triệu chứng (giảm đau), cải thiện tình trạng của mô sụn và nâng cao độ an toàn của điều trị lên rất nhiều.

Các thuốc có tác dụng bảo vệ sụn (chondroprotective) có ảnh hưởng tích cực đến sự trao đổi chất của mô sụn của các đĩa đệm cột sống và khớp, giúp làm chậm sự tiến triển của những thay đổi thoái hóa, tăng tính hút nước (hydrophilicity) của các đĩa đệm cột sống, ở một mức độ nhất định biểu hiện tác dụng chống viêm và giảm đau.

Một thời điểm quan trọng nhất của sinh bệnh học của viêm khớp là sự thiểu sản proteoglycans, do có sự khử trùng hợp của các phức hợp protein polysaccharide (protein polysaccharide depolymerization) thành các hợp chất nhỏ hơn mà đi khỏi mô sụn. Cũng khi đó chức năng của các tế bào sụn bị phá vỡ, làm cho chúng tổng hợp các proteoglycans kém ổn định hơn, làm giảm các đặc tính sinh lý của sụn, dẫn đến những xói mòn và các vết nứt. Sử dụng hợp lý các thuốc bảo vệ sụn (chondroprotectors) cho phép bù đắp vào sự thiếu proteoglycans.
Như vậy, điều trị với chondroitin về cơ bản là một trị liệu thay thế, ở những bệnh nhân bị viêm khớp nồng độ của chất này trong hoạt dịch giảm so với định mức. Kết quả của các nghiên cứu dược động học cho thấy hấp thụ thuốc tốt sau khi uống và tạo ra các nồng độ cao trong hoạt dịch. Các số liệu nghiên cứu với phương pháp đánh dấu phóng xạ trong việc sử dụng chondroitin sulphate chỉ ra rằng nó được đưa trực tiếp vào mô sụn.
Glucosamine sulfate cũng là thành phần cấu trúc của sụn khớp. Trong ống nghiệm(in vitro) đã chứng minh rằng, việc bổ sung  chất này để nuôi cấy các tế bào sụn kích thích sự tổng hợp các proteoglycans. Người ta cho rằng, glucosamine monosulfate có  tác dụng kép – chống viêm và bảo vệ sụn.

Tuy nhiên, nên lưu ý rằng, hiệu quả của việc sử dụng các thuốc bảo vệ sụn (chondroprotectors) không phải là đến ngay lập tức. Những thay đổi tích cực đầu tiên trong tình trạng sức khỏe của bệnh nhân được quan sát thấy trong khoảng một tháng từ khi bắt đầu uống thuốc. Thông thường, nhóm thuốc này được sử dụng ít nhất là 4 tháng trong liệu trình đầu tiên và thứ hai, với thời gian nghỉ giữa hai liệu trình này là khoảng 2-3 tháng. Trong tương lai, thời gian và tần số điều trị có thể được điều chỉnh tùy thuộc vào tình trạng lâm sàng riêng của bệnh nhân. Sự tiến triển của bệnh chậm trong sơ đồ như vậy theo các số liệu trên MRI và siêu âm được khẳng định.

Lợi thế của việc điều trị bệnh sinh là bảo toàn lâu dài kết quả tích cực từ việc uống các loại thuốc. Như vậy, tác dụng giảm đau do liệu trình điều trị với các thuốc chondroprotectors mang lại thường kéo dài 3-6 tháng, trong khi đó hiệu quả của các thuốc chống viêm không steroid (NSAIDs) chỉ thấy biểu hiện trong thời gian uống thuốc.

Phóng viên: Có thể có các tác dụng phụ từ việc sử dụng các  thuốc chondroprotectors?
 

GS TSKH BS O.P. Bortkevich: Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc uống các loại thuốc của nhóm này nhìn chung là an toàn cho bệnh nhân. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải nhớ rằng nhiều loại thuốc dựa trên cơ sở của chondroitin sulfate và glucosamine hydrochloride hiện có trên thị trường dược phẩm của Ukrain không có giấy chứng nhận GMP. Với các hoạt chất có nguồn gốc sinh học, vấn đề an toàn của các thuốc này là đặc biệt quan trọng . Do đó, các thuốc này có thể chứa các tạp chất khác nhau có thể làm tăng dị ứng của cơ thể. Vì vậy, khi chỉ định một loại thuốc này hay một loại thuốc kia, bác sĩ phải thật chắc chắn về chất lượng cao của thuốc.

Như vậy, chỉ có các loại thuốc được sản xuất phù hợp với các tiêu chuẩn GMP mới được đảm bảo chất lượng cao. Việc sử dụng hợp lý các loại thuốc này trong điều trị viêm khớp được xác nhận bởi nhiều nghiên cứu và kinh nghiệm riêng về ứng dụng chúng.

Vì vậy, ở Trung tâm khoa học Quốc gia “Viện Tim mạch mang tên N.D. Strazhesko ” của Viện hàn lâm học y học Ucrain đã tiến hành các thử nghiệm lâm sàng  ứng dụng một số loại thuốc ở những bệnh nhân bị viêm khớp trong những giai đoạn khác nhau và ở mức độ  nặng khác nhau. Trong trường hợp này, đã đạt được các kết quả tốt trong việc loại bỏ triệu chứng đau, cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân, loại bỏ viêm màng hoạt dịch (synovitis), đánh giá được tác dụng chống viêm rõ rệt của hoạt chất.
Nhìn chung, độ an toàn và tính hiệu quả đã được chứng minh, làm cho chondroprotectors là loại thuốc của sự lựa chọn cho điều trị lâu dài của viêm khớp và có thể được coi như là một thay thế cho NSAIDs sau khi loại bỏ viêm cấp tính ở khớp.

Phóng viên: Vai trò của NSAIDs trong điều trị viêm khớp là gì? Trong những trường hợp nào thì biện minh việc sử dụng chúng?
 

GS TSKH BS O.P. Bortkevich: Trước đây, trong điều trị viêm khớp chỉ sử dụng thuốc giảm đau đơn giản (ví dụ như acetaminophen – paracetamol) và các thuốc NSAIDs. Những loại thuốc này có hiệu quả trong việc cắt cơn đau và viêm, và chúng có tác dụng nhanh chóng. Tuy nhiên, NSAIDs có một số tác dụng phụ, bao gồm cả viêm loét đường tiêu hóa, và tăng nguy cơ tai biến tim mạch, đặc biệt là nhồi máu cơ tim. Một số NSAIDs do một số biến chứng đã bị thu hồi khỏi thị trường.
Nhìn chung, tác động của NSAIDs là nhằm mục đích cắt viêm, nhưng không đủ để điều trị hiệu quả. Viêm khớp và các bệnh  thấp khớp khác cần có chỉ định các thuốc điều trị chuẩn ngăn chặn sự tàn phá hơn nữa của sụn, dựa trên nền tảng phát triển của bệnh lý. Tuy nhiên, nếu cần thiết, để nhanh chóng loại bỏ hội chứng đau đớn, đặc biệt là trong trường hợp bệnh cấp tính, việc uống NSAIDs là hoàn toàn hợp lý. Để tránh các hậu quả tiêu cực cho sức khỏe của bệnh nhân, việc điều trị cần được thực hiện dưới sự giám sát của bác sĩ kê toa. Cần lưu ý rằng, việc chỉ định song song các thuốc chondroprotectors  cho phép giảm liều NSAIDs và rút ngắn đáng kể thời gian sử dụng chúng.

Phóng viên: Bác sĩ phải có những khuyến nghị gì cho việc thay đổi lối sống của bệnh nhân viêm khớp?
 

GS TSKH BS O.P. Bortkevich: Một trong những yếu tố nguy cơ phát triển viêm khớp là thừa cân. Một  khi bệnh lý đã định hình thì bệnh nhân này cần phải điều chỉnh khẩu phần ăn uống. Bình thường hóa trọng lượng cơ thể sẽ giúp giảm đau khớp. Trong tình huống này, chuyên gia thấp khớp có thể tư vấn cho bệnh nhân đến với chuyên gia dinh dưỡng.
Không có khuyến nghị thống nhất liên quan đến gánh nặng cho khớp bị tổn thương. Một mặt, giảm tải trọng làm máu kém lưu thông trong màng hoạt dịch của khớp, gây tiến triển các thay đổi thoái hóa; mặt khác, tăng tải trọng hoạt huyết dẫn đến tiến triển sinh tân mạch, các thay đổi tăng sinh trong màng hoạt dịch. Như vậy, trong mỗi trường hợp cụ thể, bác sĩ cần xác định sự cân bằng “động-nghỉ’’ cho riêng từng bệnh nhân.

Nên lưu ý rằng, các bài tập thể dục là rất quan trọng đối với bất kỳ bệnh nhân có bệnh lý khớp đầu gối. Việc củng cố cơ bốn đầu của hông thực hiện duỗi khớp đầu gối và ổn định nó, có một ý nghĩa đặc biệt trong điều trị viêm khớp. Việc thực hiện các bài tập tăng cường cơ này làm giảm đáng kể các cơn đau ở khớp. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải nhớ rằng trong viêm khớp, các bài tập bất kỳ, được bác sĩ khuyên dùng, nên được thực hiện ở tư thế ngồi hoặc nằm.

Ngoài ra, tất cả các bệnh nhân được khuyên là nên tránh cho các chi dưới khỏi bị quá lạnh và sử dụng các biện pháp làm ấm, chẳng hạn như ủ ấm, ngâm trong nước nóng, sưởi ấm.
 Nhiệm vụ chính của điều trị là để ngăn chặn sự phát triển của bệnh, cắt hội chứng đau, cải thiện chất lượng cuộc sống và khôi phục lại tình trạng chức năng của bệnh nhân, và có thể đạt được chỉ khi chỉ định các loại thuốc tác động vào nguyên nhân của bệnh.

 

Tiến sỹ Lô Quang Phú

Nghiên cứu viên cao cấp

Viện Y Học Bản Địa Việt Nam

 Nguồn:  http://health-ua.com/articles/3509.html

Doctor SAMAN

[{"src":"\/yhbd.vn\/upload\/images\/2012\/11\/Oleg_Bortkevich%20-%20yhocbandia.jpg","thumb":"\/yhbd.vn\/upload\/images\/2012\/11\/Oleg_Bortkevich%20-%20yhocbandia.jpg","subHtml":"Oleg Bortkevich"}]