suy tim

Khái niệm   Cơ tim rất nhạy cảm với thiếu oxy với các lý do sau: khi nghỉ cơ tim lấy 70-75% oxy ở động mạch vành, trong khi đó cơ vân 20%, toàn cơ thể 30% tổng lượng oxy ở động mạch. Vì vậy khi bị thiếu oxy, cơ tim không thể dùng biện pháp tận dụng oxy như các cơ quan khác vẫn làm. Tim không có khả năng nợ oxy vì glucose chỉ cung cấp 15-20% năng lượng cho tim phần còn lại tim trông cậy vào sự oxy hoá lipid và acid amin. Ngoài ra tim dùng tới 30% năng lượng của nó để duy trì sự chênh lệch ion giữa hai bên màng. Hệ mao mạch ở tim rất dầy đặc nhưng nó không tăng sinh khi tim phì đại.   Tổn thương tim không do mạch vành gặp trong ngộ độc K+, Ca+ và Na+, thiếu vitamin B1, do cơ chế miễn dịch, do nhiễm độc và nhiễm khuẩn. Trong bài này chúng tôi chỉ đề cập đến suy tim do  mạch vành chủ yếu là bệnh của người cao tuổi trong xã hội hiện đại.  Giải phẫu: động mạch vành phải và trái tạo ra vòng cung ôm lấy quả tim. Các nhánh chính của động mạch vành chạy trên bề mặt tim từ đó toả ra các nhánh nhỏ đi thẳng góc vào tim phân nhánh tới mao mạch. Việc nuôi tim chủ yếu dựa vào động mạch vành, chỉ lớp dưới niêm mạc dày 75-100 micromet là được máu trong buồng tim trực tiếp nuôi dưỡng. Động mach vành trái nuôi phần trước và phần bên thất trái, động mạch vành phải nuôi dưỡng thất phải và phần sau thất trái. Tĩnh mạch từ vách thất trái ra khỏi tim bằng đường xoang vành 75%, phần còn lại theo các tĩnh mạch nhỏ đổ trực tiếp vào nhĩ phải.   Sinh lý: khi cơ thể nghỉ hoàn toàn thì mạch vành cung cấp máu cho tim khoảng 225ml /phút, bằng 0,7-0,8ml/g cơ tim  bằng 4-5% cung lượng tim. Khi hệ cơ bắp gắng sức tối đa tim bơm ra số máu gấp 4-7 lần bình thường với áp lực cao hơn bình thường,  năng suất gấp 6-8 lần. Tuy nhiên lượng máu nuôi tim chỉ tăng lên 3-4 lần. Hậu quả cơ tim sẽ thiếu oxy, chất dinh dưỡng và thiếu năng lượng sau một thời gian gắng sức. Huyết áp động mạch vành thay đổi theo pha. Ở thì tâm thu cơ tim đẫ nén bẹp và xoắn động mạch vành do vậy lưu lượng chỉ còn dưới 100ml/phút, ở thì tâm trương lưu lượng có thể đạt tới 300ml/phút. Sự dao động lưu lượng và huyết áp trong vách tâm trái lớn hơn vách tâm phải. Cơ chế kiểm soát lưu lượng tuần hoàn vành chủ yếu là dãn mạch vành nếu nhu cầu oxy và dinh dưỡng cơ tim tăng lên. Điều này xảy ra tức thời vì cơ chế điều hoà nằm ngay trong tim. Nhu cầu oxy là tác nhân chính trong sự điều chỉnh này. Adenosin là chất gây dãn mạch đã được chứng minh là thật sự có vai trò và tác dụng mạnh mẽ tăng lưu lượng tim.  Thần kinh: kích thích hệ thần kinh tự động của tim có thể làm thay đổi lưu lượng mạch vành bằng hai cách gián tiếp và trực tiếp Mạch vành và thiếu máu cơ tim  Ở các xã hội hiện đại các bệnh thiếu máu cơ tim mà cơ chế chủ yếu là do thiểu năng mạch vành ngày càng tăng, tử vong có thể đột ngột do suy cấp tuần hoàn vành cũng có khi không đột ngột do rung tim hoặc suy tim bắt nguồn từ thiểu năng mạch vành. Có ba trường hợp có thể xẩy ra: thứ nhất là xơ vữa động mạch vành, thứ hai là tắc cấp diễn mạch vành sau xơ vữa, thứ ba là ít nhánh nối thông. 

 Hằng năm trong tổng số tử vong có 33% người Châu Âu, 35% người nước Mỹ và 27,3% người Việt Nam chết liên quan trực tiếp đến mạch vành. Thiếu máu cơ tim chính là mầm non của nhồi máu cơ tim nguyên nhân chính gây tử vong.

stent

Hình ảnh đặt sten trong lòng động mạch vành

 Hậu quả của thiếu máu cơ tim:

 Thứ nhất: khi tắc một nhánh lớn các mạch nối thông phía dưới sẽ dãn rộng sau vài chục giây (phản ứng tức thời cho cơ tim đỡ bị thiếu máu đột ngột) Sau 8-24giờ các mạch này không dãn nữa, tiếp đó lưu lượng máu trong mạch nối thông có thể tăng lên gấp đôi vào ngày thứ 2, thứ 3. Sau đó nếu vùng tổn thương không quá lớn bệnh sẽ tốt lên, nhưng phải một tháng sau mới có khả năng hồi phục.  Thứ hai: không gây tắc đột ngột xẩy ra khi mảng xơ vữa phát triển chậm, mạch hẹp dần do vậy các mạch nối thông đủ thời gian phát triển bệnh nhân không mắc các cơn đột quỵ. Đây là nguyên nhân chung gây suy tim ở người cao tuổi. Nhồi máu cơ tim  Nhồi máu cơ tim là tình trạng một phần cơ tim bị hoại tử do ngừng trệ tuần hoàn động mạch vành. Nguyên nhân tử vong: do vỡ tim là do sốc tim, tích đọng máu ở hệ tĩnh mạch, rung tim. Cơn đau thắt ngực  Đau ngực trong bệnh mạch vành là do sự thiếu oxy làm xuất hiện trong tim các sản phẩm chuyển hoá yếm khí, và các chất (histamin, kinins, enzymes) ở nồng độ cao mà tuần hoàn vành suy giảm không loại trừ kịp, chúng kích thích các đầu tận cảm giác đau và xung thần kinh được truyền về thần kinh trung ương bằng các sợi giao cảm hướng tâm.  Cơn đau thắt ngực lan lên cổ, vai hay cánh tay trái hầu hết do lưu lượng tuần hoàn vành bị giảm sút so với nhu cầu cung cấp oxy cho tim. Đây là tín hiệu có giá trị báo động xuất hiện khi lao động nhẹ, khi hưng phấn giao cảm, thậm chí khi nghỉ ngơi... các thuốc dãn mạch có tác dụng nhanh chóng cắt cơn đau. Các biệt dược tây y đều hướng tới giãn mạch, lợi tiểu, hạ hoặc tăng huyết áp, chống đông vón tiểu cầu, giảm lipit máu. Thuốc từ thảo dược đa dụng hơn, phổ rộng hơn và cũng an toàn hơn, điển hình là sản phẩm mạch vành Y học bản địa Việt nam. Loại này hiện đã có dạng viên tiện dụng.

Ths Lâm Văn Tiên

Nghiên cứu viên

Viện Y học bản địaViệt Nam

Doctor SAMAN

[{"src":"\/resources\/upload\/images\/11.2018\/suy-tim.jpg","thumb":"\/resources\/upload\/images\/11.2018\/suy-tim.jpg","subHtml":"suy tim"},{"src":"\/resources\/upload\/images\/11.2018\/stent.jpg","thumb":"\/resources\/upload\/images\/11.2018\/stent.jpg","subHtml":"stent"}]