Bs: Lê Xuân Trung
Bệnh viện Nhi Thanh Hóa

1. Đại cương
Nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính là bệnh lý phổ biến nhất trong bệnh lý nhi khoa. Tuy viêm phổi chỉ chiếm 10-15 % các trường hợp nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính, nhưng lại gây một tỷ lệ tử vong đáng kể. Theo UNICEF, hằng năm trên toàn thế giới có khoảng 3 triệu trẻ chết vì viêm phổi. Tuy đa số các trường hợp tử vong xảy ra ở những nước đang phát triển, nhưng viêm phổi vẫn là nguyên nhân gây tử vong chủ yếu ở những nước đã phát triển. 
Trong các nghiên cứu ở cộng đồng, tỷ lệ mắc viêm phổi hằng năm khoảng 4/100 trẻ trước tuổi đi học. 2/100 trẻ tuổi từ 5-9, và 1/100 trẻ tuổi từ 9-15 tuổi[2]. Viêm phổi, nếu được phát hiện sớm nhờ X quang, chiếm 7,5% các trường hợp sốt ở trẻ <3 tháng, và 13% các bệnh nhiễm trùng trong 2 năm đầu. Ở các nước phát triển, trong nhóm viêm phổi do các vi sinh vật thì virus chiếm vị trí hàng đầu, kế đó là M. pneumoniae và các loại vi khuẩn như S. pneumoniae, Haemophilus influenzae type b và Staphylococcus aureus. Ở các nước đang phát triển như nước ta, viêm phổi do các loại vi khuẩn chiếm vị trí quan trọng hơn virus. Viêm phổi do virus xảy ra với tần suất cao nhất ở lứa tuổi 2-3 tuổi, sau đó giảm dần. Mùa hay gặp nhất là vào mùa đông (lạnh và ẩm). Hình thái và mức độ nặng của viêm phổi do virus thay đổi theo một số yếu tố như tuổi, mùa, trạng thái miễn dịch của ký chủ và các yếu tố liên quan đến môi trường ví dụ nơi ở đông đúc, chật chội [1].
Tỷ lệ mắc bệnh viêm phổi do virus đã tăng lên trong thập kỷ qua. Sự gia tăng này chủ yếu là do các kỹ thuật chẩn đoán ngày càng hiện đại và trình độ của nhân viên y tế được nâng cao, dân số ngày càng tăng, ô nhiễm môi trường cũng là yết tố nguy cơ của bệnh.
Trong quá khứ, việc chẩn đoán viêm phổi do virus đã được thực hiện chủ yếu trên cơ sở lâm sàng. Hơn 10 năm qua, công nghệ sinh học mới có rất nhiều thuận lợi để chẩn đoán bệnh viêm phổi do virut[6].

2. Sinh lý bệnh.
* Sinh lý của sự bảo vệ của cơ thể: Có một số cơ chế khác nhau bảo vệ phổi và cơ thể con người khỏi các tác nhân gây bệnh từ môi trường. Không khí hít vào được lọc ở mũi. Đường hô hấp dưới được bảo vệ nhờ nắp thanh quản và thanh quản. Những vật lạ xâm nhập vào đường hô hấp dưới bị tống ra ngoài nhờ phản xạ ho. Những hạt nhỏ hơn, có thể xâm nhập sâu hơn vào khí quản bị dính vào vách khí phế quản nhờ lớp thảm nhầy trên lớp biểu mô có lông chuyển rồi được chuyển lên trên để được tống ra ngoài. Những hạt nhỏ xuống được phế nang sẽ bị xử lý bởi đại thực bào ở phế nang và cơ chế miễn dịch tại chỗ. Các hạt bị thực bào bởi các đại thực bào phế nang sẽ được vận chuyển ra khỏi phế nang bằng hệ thống bạch mạch. Bất kỳ sự rối loạn nào về giải phẫu hay sinh lý liên quan đến cơ chế bảo vệ này đều làm phổi dễ bị nhiễm khuẩn[8]. 
* Sinh lý quá trình viên phổi do virut: Khi cơ thể bị nhiễm virus, hoạt động của hệ biểu mô có lông chuyển bị rối loạn, dẫn đến sự ứ đọng chất tiết và tắc nghẽn khí đạo. Đáp ứng viêm liên quan đến nhiễm virus bao gồm sự thâm nhiễm các bạch cầu đơn nhân ở lớp dưới niêm mạc và khoảng quanh mạch, có thể dẫn đến tắc nghẽn lòng phế quản. Sự co thắt cơ trơn phế quản thường xảy ra trong phản ứng viêm này. Các biến đổi này dẫn đến sự tắc nghẽn khí đạo và xẹp phổi do tắc nghẽn tiểu phế quản hoàn toàn (điển hình trong viêm tiểu phế quản). Sự ảnh hưởng đến các tế bào type II phế nang trong viêm phổi virus dẫn đến giảm sản xuất surfactant, hình thành màng hyaline gây phù phổi. Nếu các cơ chế phòng vệ của đường hô hấp không đủ khả năng loại trừ virus ra khỏi đường hô hấp, virus sẽ định cư ở đường hô hấp trên rồi lan nhanh xuống dưới. Viêm phổi là hậu quả của sự sinh sôi của virus và tiến trình viêm trong phế nang. Những biến đổi vừa kể còn làm giảm sự trao đổi khí ở phế nang dẫn đến thiếu cung cấp oxy máu[6,8]. 

3. Nguyên nhân bệnh sinh
Các loại virus hay gây viêm phổi ở trẻ em bao gồm virus hợp bào hô hấp (respiratory syncytial virus-RSV), parainfluenza, influenza, and adenoviruses. Trong đó RSV là tác nhân hay gây viêm phổi nhất , đặc biệt là ở các trẻ nhỏ.
Bảng 1: Các tác nhân virus gây viêm phổi phổ biến nhất ở trẻ em

Tuổi

Loại virus

Sơ sinh 2-11 tuần:

1 tháng – 5 năm:

Tuổi đi học ( > 6 tuổi

Hội chứng viêm phổi nhẹ không sốt
Cytomegalovirus
RSV ( hay gặp nhất)
Parainfluenzae virus 1, 2,3
Influenzae A và B
Adenovirus và Rhinovirus
Parainfluenzae 3, Influenzae

RSV là tác nhân chính của viêm phổi và viêm tiểu phế quản cấp ở trẻ em, với tần suất cao nhất là ở lứa tuổi 2-5 tháng. Bệnh thường xảy ra thành dịch vào mùa đông và đầu xuân, với khoảng 40 % trẻ bị nhiễm trong lần tiếp xúc đầu tiên. Đa số trẻ đều bị nhiễm ít nhất một lần một trong hai subtype khi trẻ tròn 2 tuổi. Tác nhân quan trọng hàng hai là Parainfluenzae virus với 3 type huyết thanh. Parainfluenzae type 3 thường gây bệnh cho trẻ nhỏ và với hình thái lâm sàng không khác biệt so với RSV. Bệnh chủ yếu xảy ra vào mùa xuân. Influenzae virus A và B có thể nổi bật trong các vụ dịch virus mùa đông. Loại virus này thường xuyên thay đổi kháng nguyên bề mặt của nó (hemaglutinin và neuraminidase) gây cản trở cho sự hình thành miễn dịch bền vững dẫn đến tình trạng trẻ luôn nhậy cảm với loại virus này. Sau một sự thay đổi protein kháng nguyên bề mặt, các vụ dịch cúm xảy ra thường dẫn đến các biến chứng viêm phổi. Nhiễm Adenovirus xảy ra quanh năm và là nguyên nhân phổ biến gây viêm kết mạc và viêm họng ở trẻ em nhỏ. Trong số 33 type huyết thanh của Adenovirus , các type 3,7,11, và 21có thể gây viêm phổi hoại tử nặng ở trẻ nhỏ, viêm tiểu phế quản tắc nghẽn (Bronchiolitis obliterans) có thể dẫn đến tử vong. Enterovirus, Rhinovirus, Coronavirus, herpesvirus, và Cytomegalovirus thường ít khi gây viêm phổi ở trẻ em.[8]

Bảng 2: Virus ái hô hấp thường gây viêm phổi ở trẻ em nhỏ và lớn

 

Virus Tuổi Mùa Loại bệnh
RSV < 3tuổi Đông Viêm tiểu phế quản cấp
Parainfluenzae 1,2 <5 tuổi Thu Viêm thanh quản
Parainfluenza 3 <3 tuổi Xuân VTPQC, VTQ, V.phổi
Influenzae virus A và B >3 và <5 tuổi Đông Cúm
Adenovirus mọi lứa tuổi Quanh năm Viêm họng, V.phổi

VTPQC, VPQ

4. Triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng

4. 1. Lâm sàng
Phần lớn các trường hợp viêm phổi do virus đều được khởi đầu bằng các triệu chứng viêm long đường hô hấp trên trong vài ngày (viêm mũi và ho). Giai đoạn này thường kéo dìa trong 2 – 3 ngày với các triệu chứng: Ho, sốt nhẹ bà sổ mũi
Trong giai đoạn toàn phát các triệu chứng lâm sàng cũng không điển hình, có thể có 1 trong các triệu chứng sau:
+ Trẻ sốt nhưng nhiệt độ không cao bằng trong viêm phổi do vi khuẩn
+ Thở nhanh
+ Có thể có khó thở kèm theo rút lõm hỏm ức, cơ liên sườn, phập phồng cánh mũi
+ Đối với các trường hợp nặng trẻ có thể miệt lả, li bì, thở rên
+ Nghe phổi có thể có ran ẩm nhỏ hạt, đôi khi có ran ngáy
Nhìn chung trên lâm sàng rất khó phân biệt giữa viêm phổi virus với viêm phổi do mycoplasma hay vi khuẩn.[3,11,14]

4. 2. Cận lâm sàng.
Xquang phổi cho thấy phổi quá căng giãn và hiện tượng thâm nhiễm lan toả. Ở vài trường hợp có thể thấy hình ảnh thâm nhiễm theo thuỳ.
Công thức bạch cầu cho thấy số lượng bạch cầu bình thường hay tăng nhẹ (< 20.000/mm3 ) với lymphocyte chiếm ưu thế. Tốc độ láng máu và CRP bình thường hay tăng nhẹ.[8,12]

4. 3. Chẩn đoán
Chẩn đoán xác định đòi hỏi sự phân lập virus trong bệnh phẩm lấy ra trừ đường hô hấp bệnh nhi. Cấy các virus đường hô hấp đòi hỏi 5-10 ngày. Tuy nhiên, có thể chẩn đoán nhanh bằng các test chẩn đoán nhanh bằng cách dùng các kháng thể kháng virus đặc hiệu có đánh dấu để phát hiện kháng nguyên virus trong chất tiết đường hô hấp. Hiện nay các test đáng tin cậy thuộ loại này đã được sử dụng khá phổ biến đối với RSV, parainfluenza, influenza, và adenoviruses[4,8]. Chẩn đoán huyết thanh cũng có thể sử dụng với hai mẫu huyết thanh, 1 ở giai đoạn cấp và 1 ở giai đoạn lui bệnh để xác định sự tăng hiệu giá kháng thể đối với một loại virus (gấp 4 lần). Loại test này ít được dùng trên lâm sàng vì chậm, phức tạp nhưng thường được sử dụng trong các nghiên cứu dịch tễ học.[2,6,8]

5. Điều trị

5.1.Điều trị triệu chứng.
Với hầu hết các trường hợp viêm phổi do Virut đều là thể nhẹ và chỉ cần điều trị bằng cách nang cao thể trạng bệnh nhân kết hợp với các biện pháp làm thông thoáng đường thở như: Hút đờm dải, dùng các giãn phế quản đối với trẻ lớn hoặc khí dung bằng nước muối sinh lý
Đối với các trường hợp nặng, cần theo dõi nhịp tim và độ bảo hoà oxy liên tục bằng monitoring; cho thở oxy có độ ẩm cao; dùng thuốc dãn phế quản và vận động liệu pháp lồng ngực.[6,8]
Về vấn đề sử dụng kháng sinh: Trong phần lớn trường hợp, kháng sinh thường được dùng vì khả năng bội nhiễm vi khuẩn khó loại trừ. Thái độ này hợp lý và thực tế nhưng kháng sinh sẽ không thể làm thay đổi tiến trình bệnh. Sự không đáp ứng với điều trị kháng sinh hỗ trợ thêm cho chẩn đoán nguyên nhân virus. Ở trẻ <3 tuổi, cần chọn kháng sinh có phổ bảo vệ rộng (ví dụ: ampicillin hay amoxicillin + aminoglycoside). Nếu nghi ngờ tụ cầu vàng, nên dùng methicillin hay vancomycin; Ở trẻ từ 3 tháng – 5 tuổi với bệnh cảnh nặng nề, nên dùng cefuroxime hoặc nafcillin phối hợp với gentamycin đường TM. Trong những trường hợp nhẹ hơn, dùng kháng sinh uống là đủ, ví dụ như amoxicillin+clavulanic acid (Augmentin) hoặc cefaclor.[6,8,14]

5.2.Dùng thuốc kháng virus đặc hiệu:
Hiện nay Ribavirin dùng theo đường khí dung là một loại thuốc đặc hiệu kháng RSV và Amantadine dùng theo đường uống kháng Influenzae virus A đã có mặt trên thị trường. Các thuốc này cần thiết ở những trẻ bị viêm phổi do các tác nhân vừa kể có phối hợp với bệnh phổi mãn tính, bệnh tim bẩm sinh, hoặc suy giảm miễn dịch và phải được sử dụng trong vòng 48 giờ đầu của thời kỳ toàn phát. Nếu nghi ngờ viêm phổi do virus herpes có thể điều trị thử với acyclovir. Nếu xác định được viêm phổi do CMV bằng sinh thiết thì có chỉ định dùng ganciclovir.

5.3. Tiên lượng
Đa số các trường hợp viêm phổi do virus đều khỏi không để lại di chứng tuy tiến trình bệnh thường kéo dài, đặc biệt là các trẻ nhỏ. Tuy nhiên, vài trường hợp viêm phổi do RSV có thể rất nặng nề thậm chí tử vong ở những trẻ nhỏ dưới 6 tuần tuổi hoặc có các vấn đề hô hấp tim mạch kèm theo. Các di chứng đáng sợ thường xảy ra sau viêm phổi do Adenovirus, Influenzae virus, và sởi. Các di chứng này gồm: giãn phế quản, xơ hoá phổi mãn và viêm phổi kẻ bong vẩy biểu mô.Adenovirus type 1,3,4,7,21 thường gây viêm tiểu phế quản tắc nghẽn (dẫn đến hội chứng phổi tăng sáng một bên hay hội chứng Swyer-James ), và cũng tác nhân chính thường gây viêm phổi nặng tối cấp ở trẻ em nhỏ tuổi. Các bất thường X quang trong viêm phổi do virus thường tồn tại kéo dài, có khi đến 6-12 tháng. Trong viêm phổi do Adenovirus (type 7), 27% trẻ nhỏ sống sót có hình ảnh xẹp phổi.[2,4,8,15]

nguồn: benhhoc.com

Doctor SAMAN

[]