Gout

Trước nay mọi người đều cho rằng acid uric là nguyên nhân trực tiếp gây bệnh gút, thực tế là không đúng. Acid uric chỉ là 1 giai đoạn của quá trình giáng hóa purin, ngay bản thân phân tử muối Urate cũng chỉ là cấu thành đầu tiên.

   Rất nhiều phân tử urate mới cấu thành vi tinh thể urat, rất nhiều vi tinh thể urate kết hợp lại trong điều kiện siêu bão hòa mới lắng tủa thành MSU cấu trúc nên tinh thể hình kim, giai đoạn này chúng kết hợp với bạch cầu hạt trung tính hoạt hóa các chất gây viêm mới làm nên bệnh gút.

    Như vậy xưa nay các xét nghiệm acid uric trên thực tế là xét nghiệm định lượng muối urate. Tại sao vậy? Màng lọc của thận phần lá thành trong bọc Bowmann có lưới lọc cấu trúc bởi những thành phần có điện tích âm mạnh (proteoglycan), chỉ có qua đó những phân tử có điện tích dương, do vậy aicd uric (-) phải kết hợp Na+  thành muối urate có điện tích (+) mới đi qua được màng lọc thứ 3 này để xuống ống lượn gần trong đơn vị thận. Kết quả điều trị urate tinh thể trên lâm sàng có hiệu quả hơn rõ ràng, thuyết phục hơn rõ ràng so với các thuốc tác động vào acid uric. Những nghiên cứu đánh giá lâm sàng có nhóm đối chứng tại Viện nghiên cứu bệnh gút thành phố Hồ Chí Minh đã chỉ ra điều đó.

   Responding cell là những tế bào biến đại diện, mô phỏng trên ivtro về sự kích hoạt và sự ức chế của cơn viêm gút, khi các tế bào này đáp ứng với tinh thể urate được bao phủ bởi miễn dịch dịch thể phân tử IgG sẽ kích hoạt một loạt các tế bào phụ thuộc như Macrophage, fibroblat, neutrophil, tế bào mast. Theo đó chúng kích hoạt hàng loạt các yếu tố gây viêm như chemokines, CXCL8, Lysosomal enzymes, PGE2, LTB4, IL1, IL6, TNF-anpha và phản ứng với các phần tử chuyển hóa NO.

    Ngược lại tinh thể urate được bao phủ bởi Apo E, B là những phần tử Lipoprotein E, B thì xảy ra hiệu ứng ức chế quá trình viêm.

   Điều này cho ta giả thuyết rằng sự rối loạn tăng mỡ máu/mô theo hướng tăng dần theo tuổi bệnh là một hình thức phản ứng có lợi cho việc khống chế, ức chế nguy cơ cơn gút cấp.

   Nghiên cứu của Lương Thị Hồng Vân phân tích thành phần các cục tophi thu dung được sau phẫu thuật cắt bỏ của một số bệnh nhân có độ tuổi bệnh khác nhau chi nhánh Viện gút Hải dương cũng cho thấy: cục tophi 10-15 năm ngấm mỡ gấp nhiều lần so với cục có tuổi bệnh 1-5 năm.

   Một nghiên cứu khác về dịch tễ lâm sàng của Chu zian Min, Thượng Hải, 2008, cũng có nhận xét phù hợp với giả thuyết trên. Nhận xét thấy tuổi cục tophi tỷ lệ nghịch với tần suất cơn gút cấp.

   Tuy vậy quá trình viêm cấp, mạn tính trong bệnh gút là hết sực phức tạp với rất nhiều yếu tố liên quan. Trước hết nếu coi MSU là cơ chất thì sẽ xảy ra tình trạng cạnh tranh mang tính tranh chấp cơ chất này giữa IgG và các lipoprotein E,B (Apo B-100 và Apo E) theo hướng tăng viêm hoặc giảm viêm. Tuy nhiên đây mới là kết luận trên ống nghiệm,  chuột, thỏ và test trên da lợn, da người khi người ta dùng MSU nguyên chất tiêm vào đó rồi theo dõi.

   Về bản chất vấn đề, theo nghiên cứu của trung tâm y tế cựu chiến binh San Diego, 2009, Apo A, E các mô tại khớp viêm khi gắn được với MSU, chúng lập tức ràng buộc (bind) tinh thể này không cho tiếp xúc với hoặc tiếp xúc không hiệu quả với bạch cầu đa nhân trung tính do đó không xảy ra phản ứng viêm. Trong khi đó IgG là phân tử có vai trò miễn dịch dịch thể là sẵn sàng làm nội ứng cho bạch cầu đa nhân trung tính để hại thân chủ kiểu “đợi sẵn, mời chào rắn cắn gà nhà”.

   Khi có cuộc tấn công cấp tính của bệnh gút sẽ có sự xâm nhập màng mạnh mẽ của tế bào bạch cầu trung tính, đại thực bào đơn nhân và tế bào lympho. Kích hoạt của một chấn thương, phẫu thuật, sự kiện uống rượu quá mức hoặc các loại thuốc tăng nồng độ urat huyết thanh. Hàng tỷ vi tinh thể MSU (microcrystals-MSU còn nhỏ, chưa hoàn chỉnh hình kim) thực tế đã được hình thành và dự trữ sẵn sàng trước trong khớp, nhưng chưa tới điểm siêu bão hòa (super saturation). Khi có sự kiện nhiệt độ ≤ 35oC, pH trong khớp giảm mạnh các phân tử, các vitinh thể MSU lắng tủa ồ ạt quá trình hình thành MSU hoàn chỉnh tinh thể hình kim xảy ra.

   Sự suy giảm của các tế bào mast nội sinh trên phúc mạc chuột thấy kéo theo sự suy giảm khả năng gây viêm của bạch cầu trung tính với MSU. Bởi lẽ tế bào mast có chứa những hạt có nhiều chất tiền viêm, như histamine, cytokine, yếu tố hoại tử α (TNF-α) và enzyme như tryptase, chymase và esteraza serine, tất cả đều là chất gây viêm.

   Hoạt động của hệ thống bổ thể là rất thấp trong điều kiện bình thường song hoạt hóa rất mạnh trong dịch khớp bị viêm thu được từ các bệnh nhân bị bệnh gút cấp tính. Điều đó cho thấy MSU tinh thể mặc dù say sưa đính hôn với IgG để “cõng bạch cầu trung tính tới cắn gà nhà” nhưng để “cắn gà nhà MSU với có con đường khác. Nó chỉ cần liên minh với một số bổ thể C1q, C1r và C1s, C3a và C5a khi có chemo attractants (lực hấp dẫn hóa trị) thì MSU vẫn tiếp xúc với bạch cầu trung tính và gây viêm hiệu quả.

   Những điều trên không phải là tất cả, nhưng cũng tương đối phổ quát.

Bs. Hoàng Sầm

Nghiên cứu viên cao cấp

Viện Y Học Bản Địa Việt Nam

Doctor SAMAN

[{"src":"\/yhbd.vn\/upload\/images\/2013\/02\/benh-gout.jpg","thumb":"\/yhbd.vn\/upload\/images\/2013\/02\/benh-gout.jpg","subHtml":"Gout"}]