Nghiên cứu

Kỹ năng và kiến thức căn bản trong phẫu thuật

1. Rạch da và khâu da Các vấn đề cần chú ý khi rạch da: Rạch da và khâu đóng da – Dự trù sẵn độ dài của đường rạch để bảo đảm bộc lộ đầy đủ phẫu trường. – Giữ yên da với hai ngón của một bàn tay, tay còn lại cầm dao […]

1. Rạch da và khâu da

Các vấn đề cần chú ý khi rạch da:

Kỹ năng và kiến thức căn bản trong phẫu thuật yhocbandia.vnKỹ năng và kiến thức căn bản trong phẫu thuật yhocbandia.vn

Rạch da và khâu đóng da

– Dự trù sẵn độ dài của đường rạch để bảo đảm bộc lộ đầy đủ phẫu trường.

– Giữ yên da với hai ngón của một bàn tay, tay còn lại cầm dao rạch da với đường rạch liên tục. Mặt phẳng của lưỡi dao được giữ vuông góc với mặt phẳng da.

– Mỗi lần rạch, rạch từng lớp một. Giữ nguyên độ dài của đường rạch sau mỗi lần rạch. Nếu có thời gian, cầm máu sau mỗi lần rạch.

Phương pháp khâu đóng da thường được thực hiện nhất là khâu đóng một lớp với chỉ không tan và một sợi (tốt nhất là chỉ nylon 3-0 hay 4-0). mũi khâu da thường là mũi rời. mũi khâu “cắn” 1 cm mô ở hai phía. Các mũi khâu cách nhau 1 cm.

Trong trường hợp lớp mỡ dưới da dày, có thể khâu đóng riêng mô mỡ dưới da. mũi khâu đóng mô dưới da là mũi rời, bắt đầu từ đáy vết thương lên để lộn nơ chỉ xuống phía dưới. Chỉ dùng để khâu mô mỡ dưới da phải là loại chỉ tan (tốt nhất là polyglactic hay polyglycolic acid 3-0 hay 4-0). Có thể dùng chỉ không tan để khâu đóng mô mỡ dưới da, với điều kiện chúng phải là chỉ loại đơn sợi và không phải là nylon.

Kỹ năng và kiến thức căn bản trong phẫu thuật yhocbandia.vn

Khâu đóng mô

Khi vết thương bị dây trùng đáng kể, tốt nhất là để hở vết thương, khâu các mũi chờ (hình 15), đắp gạc tẩm nước muối sinh lý vào vết thương. Sau 2-5 ngày sẽ đóng vết thương bằng xiết các mũi chỉ chờ.

Kỹ năng và kiến thức căn bản trong phẫu thuật yhocbandia.vn

2. Cầm máu

Nếu máu chảy ri rỉ, cầm máu bằng cách p chỗ chảy bằng gạc. Nếu thấy một mạch máu đang chảy máu, cầm máu bằng đốt điện, buộc hay khâu buộc (hình 16). Vị trí đốt điện không quá gần da. Nếu buộc cầm máu, cắt hai đầu chỉ buộc càng ngắn càng tốt. Khi buộc cầm máu một mạch máu tương đối lớn, hay khi nghi ngờ nút chỉ buộc cầm máu có thể bị sút, nên cầm máu bằng khâu buộc. Việc cầm máu bằng khâu buộc được thực hiện bằng cách xuyên kim qua mạch máu và sau đó buộc vòng quanh mạch máu. Đặt một nút chỉ buộc thứ hai ở bên dưới của nút khâu buộc. 

Kỹ năng và kiến thức căn bản trong phẫu thuật yhocbandia.vn

3. Buộc chỉ 

Các nguyên tắc căn bản của buộc chỉ trong phẫu thuật:

– Nút chỉ phải dẹt và chắc chắn, các nơ chỉ không bị lỏng.

– Nút chỉ càng nhỏ và hai đầu chỉ càng ngắn càng tốt để giảm thiểu nguy cơ phản ứng của cơ thể đối với vật lạ.

– Khi buộc chỉ, nên tránh gây ra sự cọ xát giữa hai nhánh chỉ buộc để không làm tổn thương sợi chỉ.

– Không dùng dụng cụ phẫu thuật để kẹp sợi chỉ (trừ việc kẹp ở đầu chỉ khi buộc chỉ bằng dụng cụ). Động tác này có thể làm tổn thương sợi chỉ.

– Không làm căng sợi chỉ quá mức khi buộc. Động tác này có thể làm đứt sợi chỉ hay đứt mô.

– Không buộc chỉ quá chặt. Động tác này có thể gây thiếu máu, dẫn đến hoại tử mô.

– Sau khi đã buộc nơ thứ nhất, giữ cho một nhánh chỉ căng. Động tác này sẽ tránh được lỏng nơ.

– Nơ buộc cuối cùng nên càng nằm theo chiều ngang càng tốt. Có hai loại nút chỉ: nút vuông và nút của “nhà ngoại khoa” (surgeon’s knot)

Kỹ năng và kiến thức căn bản trong phẫu thuật yhocbandia.vn

Các nút chỉ buộc chính trong ngoại khoa: nút vuông (hình trên trái) và nút “của nhà ngoại khoa”

Các nút chỉ có thể được buộc bằng một tay, hai tay hay bằng dụng cụ.

4. Khâu vết thương

Có nhiều phương pháp khâu vết thương. Việc lựa chọn phương pháp thuộc vào các yếu tố sau đây:

– Hình dáng của vết thương

– Vị trí giải phẫu của vết thương

– Độ dày của vết thương

– Mức độ căng của hai mép vết thương

– Yêu cầu về thẩm mỹ của vết thương Mặc dù có nhiều thay đổi trong kỹ thuật khâu và chất liệu chỉ khâu, việc khâu vết thương cần đạt được các yêu cầu sau:

+ Đóng kín các khoảng chết

+ Hỗ trợ vết thương cho đến khi sự lành vết thương đủ để chịu một lực căng có xu hướng làm hở hai mép vết thương.

+ Hai mép vết thương bằng mặt và khít sát nhau

+ Cầm được máu và ngăn đượchiện tượng nhiễm trùng. Các phương pháp khâu vết thương chính bao gồm : khâu mũi rời, khâu mũi liên tục, khâu mũi đệm thẳng đứng, khâu mũi đệm nằm ngang, khâu mũi trong da, mũi khâu lộn mép, mũi khâu chịu lực và khâu mũi vòng.

Kỹ năng và kiến thức căn bản trong phẫu thuật yhocbandia.vn

Mũi khâu rời và liên tục

Kỹ năng và kiến thức căn bản trong phẫu thuật yhocbandia.vn

Khâu mũi đệm thẳng đứng

Kỹ năng và kiến thức căn bản trong phẫu thuật yhocbandia.vn

Khâu mũi đệm nằm ngang

Kỹ năng và kiến thức căn bản trong phẫu thuật yhocbandia.vnKỹ năng và kiến thức căn bản trong phẫu thuật yhocbandia.vnKỹ năng và kiến thức căn bản trong phẫu thuật yhocbandia.vn

mũi khâu lộn mép (lambert-A, connell-C, mũi khâu lấy niêm mạc ruột, cushing-B, mũi khâu không lấy niêm mạc ruột)

Kỹ năng và kiến thức căn bản trong phẫu thuật yhocbandia.vnKỹ năng và kiến thức căn bản trong phẫu thuật yhocbandia.vn

Mũi khâu chịu lực

Kỹ năng và kiến thức căn bản trong phẫu thuật yhocbandia.vn

Mũi khâu trong da và mũi khâu vòng

Mũi khâu rời là loại mũi khâu thường được sử dụng nhất.

Khi sử dụng mũi khâu rời, cần chú ý các điều sau đây:

– mũi khâu phải “cắn” đều hai phía vết thương.

– Kim khâu đi vào bề mặt da ở góc 90° và đi ra khỏi bề mặt da cũng ở góc độ đó.

– Khi hai mép vết thương không cân bằng, khâu áp mép lớn vào mép nhỏ để hạn chế lực căng trên mép nhỏ.

– Chỉ sử dụng mũi khâu rời nếu lực căng hai mép vết thương không đáng kể.

– Sử dụng chỉ không tan để khâu. Cắt chỉ vào thời điểm thích hợp.

Mũi khâu liên tục chỉ có một lợi điểm duy nhất là thời gian khâu nhanh. Các bất lợi của mũi khâu này bao gồm: hai mép da ít bằng mặt hơn và sẹo xấu hơn các mũi khâu khác.

Mũi khâu đệm thẳng đứng là mũi khâu được chọn lựa khi có sự căng giữa hai mép vết thương. Với mũi khâu này, hai mép da bằng mặt hơn. Tuy nhiên, mũi khâu này tốn nhiều thời gian hơn các mũi khác.

So với mũi khâu đệm thẳng đứng, mũi khâu đệm nằm ngang tạo ra lực hỗ trợ phân bố đều trên vết thương hơn. Tuy nhiên, với mũi khâu đệm nằm ngang, hai mép vết thương không có xu hướng áp sát vào nhau. Ứng dụng duy nhất của mũi khâu đệm nằm ngang là dùng để khâu vết thương gan. mũi khâu đệm có tác dụng cầm máu mặt cắt gan, không x rách nhu mô gan, đồng thời mở vết thương ra bề mặt, tránh nguy cơ tụ dịch trong nhu mô gan sau mổ.

Mũi khâu lộn mép và mũi khâu vòng được sử dụng nhiều trong khâu nối ống tiêu hoá. Với mũi khâu này, thanh mạc ống tiêu hoá được lộn vào trong, tránh được nguy cơ dính ruột sau mổ.

Mũi khâu chịu lực được sử dụng để khâu đóng các thành bụng khó. Đó là các trường hợp thành bụng quá căng sau khi đóng (BN béo phì, BN bị hen suyễn hay viêméphế quản mãn tính, tình trạng tăng áp lực trong xoang bụng…) hay thành bụng khó có khả năng lành (BN lớn tuổi, BN bị suy giảm sức đề kháng…).

Chỉ dùng để khâu mũi khâu chịu lực tốt nhất là chỉ nylon hay chỉ thép. mũi khâu lấy hết cả bề dày của thành bụng. Sau khi khâu, không xiết các mối chỉ, tiếp tục khâu đóng thành bụng theo cách thức thông thường. Sau khi đã kết thúc việc khâu đóng lớp da mới xiết các mối chỉ của mũi khâu chịu lực. Các đầu chỉ của mũi khâu chịu lực sẽ được luồn qua một ống ngắn làm bằng nhựa hay cao su trước khi xiết. mũi khâu chịu lực được cắt chỉ sau 2-4 tuần.

Thời điểm cắt chỉ của các mũi khâu thay đổi, tùy thuộc vào hai yếu tố chính:

– Khả năng chịu lực nội tại của vết thương. Trung bình một vết thương sẽ đạt 8% khả năng chịu lực sau 1-2 tuần.

– Lực căng hai mép của vết thương. Thời gian cắt chỉ trung bình của vết thương vùng mặt là 5-7 ngày, vùng cổ là 7 ngày, da đầu: 10 ngày, vùng thân và chi trên 8-10 ngày, chi dưới 10-14 ngày.

Cắt chỉ muộn có thể dẫn đến nhiễm trùng vết thương. Cắt chỉ muộn cũng có thể dẫn đến hiện tượng biểu mô hoá quanh sợi chỉ, làm cho sẹo có hình “xương cá”.

5. Cắt lọc vết thương:

Cắt lọc vết thương là một thủ thuật ngoại khoa căn bản trong xử trí ban đầu một vết thương dơ hay đã nhiễm trùng.

Để có thể tiến hành cắt lọc vết thương, cần có các dụng cụ sau:

– Kẹp mô (nhíp có mấu)

– Dụng cụ bóc tách sắc (dao với lưỡi số 10 hay kéo có đầu nhọn)

– Nước muối sinh lý

– Syringe lớn hay bầu cao su hay bất kỳ một hệ thống bơm rửa nào Các bước chính trong cắt lọc vết thương:

+ Bơm rửa vết thương bằng một số lượng đáng kể của nước dưới áp lực

+ Dùng nhíp có mấu lấy các dị vật

+ Dùng dụng cụ sắc lấy đi các mô chết, mô đã nhiễm trùng hay có nhiều dị vật không thể lấy đi bằng nhíp có mấu được.

+ Bơm rửa lại vết thương một lần nữa o Để hở vết thương hay khâu các mũi khâu chờ

+ Đắp gạc ướt che lên vết thương.

6. Xử trí gãy xương:

Thái độ điều trị một trường hợp gãy xương:

– Xử trí ban đầu khi tiếp cận BN tại hiện trường (bất động tạm, cầm máu tạm, giữ ấm, đảm bảo khí đạo thông suốt)

– Vận chuyển đến cơ sở y tế gần nhất

– Xử trí theo thứ tự ưu tiên (ABCDE- khí đạo, tuần hoàn, sọ não, bụng và tứ chi) Quá trình điều trị chính một trường hợp gãy xương bao gồm ba bước: nắn xương gãy, bất động và phục hồi vận động. Nắn xương gãy có thể kín hay hở.

Nắn xương kín (với phương pháp vô cảm tê tại chỗ hay mê toàn thân) được chỉ định khi:

+ Gãy xương nhỏ và di lệch ít

+ Gãy xương ở trẻ em

– Ổ gãy ổn định sau khi được kéo nắn Nắn xương hở được chỉ định khi:

+ Không thể nắn kín o Gãy xương thấu khớp

+ Gãy không vững (nguy cơ di lệch thứ phát sau khi nắn kín)

Xương gãy có thể được kéo nắn liên tục. Lực kéo nắn liên tục có thể là trọng lực (gãy đầu trên xương cánh hay), lực kéo trên da (gãy xương đùi ở trẻ em) hay lực kéo trên đoạn gãy xa (gãy xương đùi ở người lớn)

Kỹ năng và kiến thức căn bản trong phẫu thuật yhocbandia.vn

Gãy xương đùi ở người lớn

Xương gãy, sau khi đã được nắn chỉnh, cần được bất động một thời gian. Bất động xương gãy có thể bằng bột (bó bột hay nẹp bột) hay bằng các phẫu thuật cố định (cố định ngoài và cố định trong. Chỉ định của phẫu thuật cố định trong: 

+ Không thể nắn kín (trường hợp này kết hợp nắn hở với cố định trong).

+ Gãy không vững

+ Gãy xương bệnh lý

+ Gãy xương, chỗ gãy chậm liền xương (gãy cổ xương đùi)

+ Gãy nhiều chỗ Các phương pháp cố định trong 

Kỹ năng và kiến thức căn bản trong phẫu thuật yhocbandia.vn

Phẫu thuật cố định trong

 Cố định bằng bảng và vít, Cố định bằng dây thép, Đóng đinh nội tuỷ.

Nội dung của phẫu thuật cố định ngoài là xuyên các vít dài qua thân xương ở hai phía của ổ gãy và cố định chúng vào khung ngoài. 

Kỹ năng và kiến thức căn bản trong phẫu thuật yhocbandia.vn

Phẫu thuật cố định ngoài

Chỉ định của phẫu thuật cố định ngoài:

– Gãy xương kết hợp với tổn thương mô mềm nặng

– Đa thương (thí dụ có tổn thương ngực phối hợp)

– Gãy xương chậu

– Nhiễm trùng ổ gãy Sau khi bất động xương gãy:

+ Kê phần chi có ổ gãy lên cao (để hạn chế phù nề)

+ Cho BN tập vận động chủ động (có hỗ trợ, để tăng cường lượng máu lưu thông giúp xương mau liền, đồng thời tánh cứng khớp)

7. Khâu nối gân

Trước khi tiến hành khâu nối gân cần chú ý:

– Tìm đúng hai đầu gân bị đứt (dựa vào sự tương xứng về vị trí và sự ăn khớp về hình dáng của hai đầu)

– Cố định đầu gân (đặc biệt đầu gần) bằng kim

– Không kẹp gân bằng các dụng cụ phẫu thuật. Động tác này có thể làm dính gân sau này.

Có hai loại mũi khâu nối gân: mũi khâu nhân (core suture) và mũi khâu vòng. Phải thực hiện ít nhất bốn mũi khâu nhân, bằng chỉ prolene 3-0. Chú ý vị trí sợi chỉ xuyên ngang một đầu gân trong mũi khâu nhân phải cách đầu tận tối thiểu 1 cm. mũi khâu vòng là mũi liên tục, xuyên qua lớp bao ngoài của hai đầu tận. Để khâu mũi vòng, sử dụng chỉ prolene 5-0.

Kỹ năng và kiến thức căn bản trong phẫu thuật yhocbandia.vn

Mũi khâu nhân trong phẫu thuật nối gân

Doctor SAMAN

Tác giả

Giới thiệu về tác giả

Sưu tầm

Bình luận

Bấm vào đây để viết bình luận