Thử nghiệm lâm sàng (TNLS) là nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá tác dụng của một loại thuốc, phẫu thuật hoặc can thiệp tâm lý trên người. Ví dụ, đánh giá một phương pháp điều trị mới, một loại thuốc mới hoặc chế độ ăn uống hoặc thiết bị y tế (ví dụ, máy tạo nhịp tim…) có an toàn và hiệu quả ở người hay không. Thông thường một TNLS được sử dụng để tìm hiểu xem một phương pháp điều trị mới có hiệu quả hơn và / hoặc có ít tác dụng phụ có hại hơn so với điều trị tiêu chuẩn [1]. Một ý kiến khác, TNLS là một loại nghiên cứu có đối tượng tham gia là con người (còn gọi là “tình nguyện viên nghiên cứu” hay “đối tượng nghiên cứu”). Nghiên cứu được thực hiện để tìm ra câu trả lời cho một vấn đề khoa học và bác sĩ hay nhà khoa học thực hiện nghiên cứu được gọi là “nhà nghiên cứu”. Trong TNLS, nhà nghiên cứu sẽ quan sát các tác dụng mà một biện pháp can thiệp có thể có trên những người tham gia. Biện pháp can thiệp có thể là thuốc, thiết bị hay thủ thuật y tế; đó cũng có thể là sự thay đổi về hành vi mà người tham gia đồng ý thử nghiệm. Nhà nghiên cứu thu thập dữ liệu (thông tin) về những ảnh hưởng của biện pháp can thiệp đối với sức khỏe của người tham gia [2].

Thử nghiệm lâm sàng (TNLS) là nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá tác dụng của một loại thuốc, phẫu thuật hoặc can thiệp tâm lý trên người.

Trong phạm vi của bài này, chúng ta chỉ đề cập tới TNLS đối với thuốc từ dược liệu (TTDL), mà theo định nghĩa, TTDL là thuốc được sản xuất từ nguyên liệu có nguồn gốc tự nhiên từ động vật, thực vật hoặc khoáng chất. Thuốc có hoạt chất tinh khiết được chiết xuất từ dược liệu, thuốc có sự kết hợp dược liệu với các hoạt chất hóa học tổng hợp không gọi là TTDL. Hầu hết các sản phẩm của Viện Y học Bản địa Việt Nam từ trước tới này đều thuộc dạng TTDL.

Theo quy định của Bộ Y tế, các TTDL đều phải được nghiên cứu TNLS trước khi sử dụng, trừ một số TTDL được miễn TNLS theo quy định [3]. Thông thường, một loại thuốc mới cần được thử nghiệm qua hai lần: Thử nghiệm tiền lâm sàng (trên động vật thí nghiệm) và TNLS (trên người). Bài viết này sẽ đi vào các vấn đề chung và đi sâu vào thử nghiệm tiền lâm sàng (TNTLS) và bài sau sẽ đề cập sâu về TNLS.

1. Các vấn đề cần nghiên cứu đối với thuốc từ dược liệu Việt Nam (thuốc mới).

- Đánh giá tính xác thực của thuốc (authenticity) với các tiêu chuẩn cảm quan, thực vật, hóa lý và nếu có thể cả tiêu chuẩn sinh học.

- Đánh giá chất lượng thuốc thông qua việc xác định giới hạn hàm lượng tạp chất, hàm lượng hoạt chất hoặc nhóm hoạt chất của dược liệu và những chất bị cấm.

- Đánh giá hiệu quả của qui trình bào chế cổ truyền.

- Đánh giá tính an toàn của thuốc.

- Đánh giá tác dụng điều trị.

- Đánh giá tác dụng hỗ trợ điều trị.

- Đánh giá tác dụng có lợi đối với sức khỏe con người.

- Các đánh giá khác tùy theo mục tiêu nghiên cứu.

2. Hướng dẫn về hồ sơ kĩ thuật nghiên cứu tiền lâm sàng và lâm sàng thuốc từ dược liệu.

- Tên của thuốc: Ghi tên Việt Nam hoặc tên biệt dược đã được Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam cấp giấy chứng nhận nhãn hiệu (có minh chứng kèm theo).

- Công thức của thuốc: Nêu tên từng vị thuốc bằng tiếng Việt Nam có kèm theo tên khoa học của vị thuốc đó, ghi rõ liều lượng từng vị thuốc cho 01 đơn vị thành phẩm, vị thuốc đạt tiêu chuẩn Dược điển Việt Nam hoặc tiêu chuẩn Dược điển nước ngoài hoặc tiêu chuẩn cơ sở.

- Dạng bào chế: Ghi rõ dạng bào chế (viên nén, viêm nén bao phim, viên nén bao đường, viên nang cứng, viêm nang mềm ...), hàm lượng của 01 đơn vị sản phẩm.

- Quy trình bào chế cao dược liệu bán thành phẩm (nếu có) bao gồm:

+ Công thức cho 01 mẻ sản xuất: bao gồm khối lượng dược liệu, dung môi dùng trong chiết xuất.

+ Quy trình sản xuất cao cần mô tả:

• Máy móc thiết bị dùng trong sản xuất cao.

• Sơ đồ các giai đoạn sản xuất cao.

• Mô tả quá trình sản xuất cao.

• Vệ sinh an toàn lao động.

• Phương pháp kiểm tra, kiểm nghiệm.

- Quy trình sản xuất chế phẩm bao gồm:

+ Công thức của 01 đơn vị thành phẩm.

+ Công thức cho 01 mẻ sản xuất (các nguyên liệu, phụ liệu - ghi rõ khối lượng từng loại).

+ Đặc điểm nguyên liệu, phụ liệu.

+ Sơ đồ các giai đoạn sản xuất.

+ Các thiết bị dùng trong sản xuất.

+ Mô tả quy trình sản xuất.

+ Vệ sinh vô trùng, an toàn lao động.

+ Kiểm soát và kiểm nghiệm (ghi rõ nội dung và phương pháp).

+ Nội dung kiểm tra trong quá trình sản xuất.

+ Dư phẩm, phế phẩm (cách giải quyết).

+ Hồ sơ làm việc cần thiết phải có.

- Tiêu chuẩn kiểm nghiệm chất lượng cao bán thành phẩm (nếu có).

+ Yêu cầu kỹ thuật:

• Bào chế.

• Nguyên liệu và phụ liệu.

• Chất lượng thành phẩm.

+ Cách trình bày:

• Tính chất.

• Mất khối lượng do làm khô.

• Kim loại nặng độc: Ghi rõ giới hạn.

• Định tính: Bằng phản ứng hóa học, bằng sắc ký lớp mỏng, sắc ký lớp mỏng hiệu năng cao.

• Định lượng: Xác định hàm lượng hoạt chất, hoặc nhóm hoạt chất.

• Độ ẩm.

• Độ nhiễm khuẩn.

+ Phương pháp thử: Ghi rõ phương pháp thử các chỉ tiêu trên.

+ Đóng gói, bảo quản.

- Tiêu chuẩn kiểm nghiệm chất lượng thành phẩm: Tùy theo dạng thành phẩm ghi rõ các chỉ tiêu chất lượng và phương pháp thử phù hợp - cần kèm theo phiếu kiểm nghiệm các chỉ tiêu chất lượng đã nêu của thành phẩm. (Phiếu của Viện Kiểm nghiệm thuốc hoặc của Phòng Kiểm nghiệm đạt tiêu chuẩn GLP). Nếu dược liệu chứa chất cấm thì phải có báo cáo.

- Báo cáo kết quả: Theo dõi ổn định của chế phẩm.

+ Sử dụng phương pháp thường quy: nhiệt độ theo dõi (30°C ± 2°C), độ ẩm tương đối: 70% ± 5%.

+ Sử dụng phương pháp lão hóa cấp tốc (nếu thành phẩm có chỉ tiêu định lượng hoạt chất).

Dựa vào kết quả theo dõi độ ổn định đề xuất thời gian sử dụng của thuốc từ dược liệu.

- Báo cáo độ an toàn của chế phẩm.

- Báo cáo tác dụng dược lý của chế phẩm

3. Nghiên cứu tiền lâm sàng (NCTLS) thuốc từ dược liệu

3.1. Động vật nghiên cứu

- Nguồn cung cấp:

+ Nguồn cung cấp động vật thí nghiệm (ĐVTN): Sử dụng động vật của các cơ sở chăn nuôi có uy tín để cung cấp động vật đảm bảo chất lượng cho các phòng thí nghiệm.

+ Động vật được kiểm tra chu đáo về mọi mặt như: Trọng lượng, lông, màu đuôi, răng, mắt, móng, vú, bộ phận sinh dục ngoài...

+ Đảm bảo một nguồn cung cấp động vật ổn định trong suốt quá trình nghiên cứu.

+ Nuôi dưỡng và chăm sóc: Động vật nuôi giữ trong điều kiện môi trường thí nghiệm, yên tĩnh, thoáng khí, nhiệt độ từ 20-30°C, độ ẩm 60-75%. Có đủ chuồng để nuôi giữ động vật. Chuồng phải có kích thước phù hợp, có đủ chỗ để thức ăn, nước uống, thoáng, sạch sẽ, dễ làm vệ sinh. Những loài nhỏ như chuột nhắt có thể nuôi nhốt theo từng nhóm tương ứng với các mức liều thử, động vật lớn cần nuôi giữ từng con. Động vật cần được lưu giữ trong điều kiện thí nghiệm ít nhất 2 ngày (với động vật nhỏ) hoặc 5 ngày (với động vật lớn) trước khi thí nghiệm.

- Chủng loại, giống, tuổi, trọng lượng và các đặc điểm sinh lý:

+ Các động vật nghiên cứu thường dùng là chuột nhắt trắng, chuột cống trắng, chuột lang, thỏ, chó, mèo và ếch. Phải xác định chủng loại, giống, trọng lượng và tuổi thích hợp cho mỗi loại thí nghiệm.

+ Khi cần thử nghiệm một phương pháp mới, động vật mới hoặc muốn thay đổi động vật thường dùng trong phương pháp kinh điển phải nghiên cứu chu đáo, thận trọng và phải đảm bảo các yêu cầu khoa học.

+ Trước mỗi thí nghiệm kiểm tra các đặc điểm sinh lý của ĐVTN  như thân nhiệt, tuyến sữa...

+ Trọng lượng của động vật phải cân vào lúc đói, trước thí nghiệm. Nhận động vật thí nghiệm từ các nơi cung cấp, cân nặng cũng phải tính lúc đói.

- Chế độ dinh dưỡng của động vật nghiên cứu:

+ Thức ăn của ĐVTN: Cần có công thức thức ăn hợp lý phù hợp với từng loại động vật, đáp ứng theo yêu cầu của thí nghiệm. Đảm bảo chế độ ăn đồng nhất trong suốt quá trình nghiên cứu. Không dùng thức ăn để tăng trọng nhanh, tránh dùng thức ăn có khả năng ảnh hưởng đến tác dụng của thuốc.

+ Tôn trọng giờ cho ăn hàng ngày để không ảnh hưởng đến hấp thụ thuốc và tránh sự căng quá mức của dạ dày. Thường cho uống thuốc vào sáng hôm sau tức là sau khoảng 16 giờ kể từ khi cho ăn bữa cuối cùng của ngày hôm trước.

- Số lượng động vật thí nghiệm.

+ Số lượng động vật thí nghiệm được quy định theo từng thí nghiệm. Đảm bảo đủ số lượng cho phép tính được xác suất thống kê có độ tin cậy cao.

+ Nghiên cứu cơ quan cô lập: Mỗi tiêu bản sinh vật có thể cho một số tiêu bản thí nghiệm.

- Phương pháp chia lô thí nghiệm: Do thuốc sử dụng trong thí nghiệm ở dạng toàn phần hoặc các phân đoạn nên tác dụng thể hiện trên ĐVTN thường khó nhận biết. Vì vậy, số lô nghiên cứu tùy thuộc vào dự đoán tác dụng của thuốc. Cách chia lô thí nghiệm được sử dụng phổ biến là:

+ Lô trắng không dùng gì cả.

+ Lô chứng dùng nước cất hoặc dung môi.

+ Lô chứng dương dùng một thuốc kinh điển đã biết tác dụng (nếu có).

+ Lô trị cần chia nhiều nhóm khác nhau tùy theo liều lượng thuốc dự đoán tác dụng.

- Phương pháp đánh giá kết quả của thuốc thí nghiệm: Đánh giá kết quả của thuốc nghiên cứu có thể theo các cách sau:

+ So sánh diễn biến giữa các lô thí nghiệm.

+ So sánh số liệu thu được trước và sau thí nghiệm ở từng liều thuốc, giữa lô chứng với lô trị.

+ Kết quả nghiên cứu thu được chỉ có giá trị đánh giá chính mẫu thuốc đang nghiên cứu, không được phép ngoại suy sang các mẫu thuốc khác.

+ TTDL thường dùng dạng toàn phần hoặc phân đoạn và chủ yếu theo đường uống nên tác dụng chậm. Vì vậy nên có thử nghiệm sàng lọc trước để chọn thời điểm thích hợp đánh giá tác dụng của thuốc.

- Phương pháp thực nghiệm đánh tác dụng: Phương pháp thực nghiệm quyết định chất lượng của nghiên cứu, cần lựa chọn chính xác trước khi làm thực nghiệm.

+ Động vật nguyên vẹn: Tác dụng dược lý của TTDL thường được xác định qua thực tế lâm sàng (trên cơ thể người bệnh). Vì vậy, nên ưu tiên thử nghiệm trên động vật nguyên vẹn khi đánh giá tác dụng của thuốc.

+ Các mô và cơ quan cô lập: Loại thử nghiệm này nên thực hiện khi cần đánh giá ảnh hưởng của thuốc trên cơ quan đích (ruột cô lập, tim cô lập, mạch cô lập v.v...), đặc biệt để tìm hiểu cơ chế tác dụng của thuốc.

+ Nghiên cứu in-vivo và in-vitro: Nghiên cứu in-vitro dùng để thăm dò tác dụng và sơ bộ cơ chế tác dụng trước khi chuyển sang nghiên cứu in-vivo.

+ Nghiên cứu trên mô hình bệnh lý: Là phương pháp nên dùng khi đánh giá tác dụng của TTDL. Có thể thực hiện số mô hình bệnh lý trên động vật đã được áp dụng tại Việt Nam cũng như một số nước trên thế giới.

3.2. Dùng thuốc

- Đường dùng thuốc: Nghiên cứu tác dụng và độc tính trên ĐVTN thường được thực hiện theo đường dự kiến dùng cho người hoặc đường mà mẫu nghiên cứu có thể tiếp xúc và gây ảnh hưởng cho người. Với các chất có thể tiếp xúc và gây ảnh hưởng cho người theo nhiều đường (miệng, hô hấp, ngoài da), việc thử độc tính cần được tiến hành trên các đường dùng tương tự. Liều thử trên động vật cần được tính theo cân nặng tương ứng với từng loại thử nghiệm.

+ Đường uống: Cho động vật uống theo một số cách sau:

* Đưa thẳng kim đầu tù hoặc các loại xông (sonde) y tế có kích thước thích hợp vào dạ dày;

* Đưa thuốc qua một dụng cụ thích hợp vào miệng để động vật tự nuốt: Áp dụng với các loại động vật lớn (chó, khỉ) khi cho uống các các mẫu thử dạng rắn (thuốc viên);

+ Đường tiêm: có thể đưa thuốc qua các đường tiêm bắp, tiêm tĩnh mạch, phúc mạc hoặc dưới da, tùy theo đường dùng dự kiến trên người. Với dịch thử có thể tích lớn cần được làm ấm trên 37°C trước khi tiêm tĩnh mạch. Dụng cụ tiêm phải đảm bảo vô khuẩn; không dùng chung kim tiêm cho các ĐVTN khác nhau. Khi cần thử ở mức liều cao, có thể tiêm thuốc ở nhiều vị trí (Phụ lục- Bảng 2).

- Số lần dùng thuốc: Số lần cho thuốc nhiều hay ít tùy thuộc vào quy trình của từng nghiên cứu cụ thể.

+ Độc tính cấp: Mỗi động vật thí nghiệm (ĐVTN) được cho liều thử duy nhất dùng một lần. Khi mức liều khá lớn, có thể chia thành liều nhỏ, dùng 2 - 3 lần trong ngày. Khoảng cách giữa các lần cho uống nên cách nhau ít nhất là 2 giờ; cho động vật ăn sau khi thử liều thứ 2. Nên bố trí số lần dùng và khoảng cách phù hợp để thuận tiện cho quá trình thử nghiệm và theo dõi, không nên cho dùng quá 4 lần trong vòng 24 giờ.

+ Độc tính bán trường diễn và độc tính trường diễn: Chế độ cho liều thử và thời gian thử nghiệm nói chung sẽ được tính theo thời gian dự kiến sử dụng trên người (xem phụ lục). Tuy nhiên, cần xem xét từng trường hợp để có thể giảm số lần dùng trong ngày.

- Liều thực nghiệm: Xác định đúng liều dùng trong thực nghiệm góp phần quan trọng cho sự thành công của thí nghiệm, thường phải căn cứ vào liều có thể gây đáp ứng. Xác định liều thực nghiệm bằng cách tham khảo tài liệu, tính từ liều lâm sàng đã có hoặc dò liều. Dò liều là phương pháp tốt nhất kể cả khi đã có liều thí nghiệm do tài liệu và lâm sàng cung cấp. Tùy trường hợp cụ thể cần dò 3 - 5 liều.

- Thể tích thuốc nghiên cứu cho mỗi lần: Khi cho động vật dùng thuốc nghiên cứu, mỗi lần có thể cho một liều lượng khác nhau. Thể tích thuốc dùng sẽ tùy thuộc vào đường cho vào cơ thể và loại thuốc thí nghiệm. Ví dụ: với chuột nhắt trắng uống 0,2 ml/10 gam thể trọng; tiêm dưới da dung dịch nước 0,2 - 0,3 ml, dung dịch dầu 0,1 - 0,2 ml; tiêm màng bụng 1 ml (xem phụ lục).

- Xử lý thuốc thí nghiệm:

+ Tùy theo đặc tính, thể chất và đường dùng dự định của từng loại mẫu mà thực hiện những cách xử lý mẫu thích hợp. Ưu tiên thử nghiệm mẫu ở trạng thái đúng như dự kiến sẽ dùng trên người, đặc biệt với mẫu thử ở dạng thành phẩm. Điều kiện, kỹ thuật xử lý mẫu phải phù hợp với đường dùng và cách dùng, hạn chế gây những ảnh hưởng tới độ an toàn hay độc tính của mẫu thử.

+ Với các chất lỏng, dùng nguyên mẫu hoặc pha loãng với dung môi thích hợp để được dung dịch thử.

+ Với các chất rắn tan được trong nước, hòa tan mẫu thử trong nước/nước muối sinh lý đến nồng độ thích hợp để thử. Với chất rắn khó tan hoặc không tan trong nước, có thể sử dụng thêm các chất làm tăng độ tan hoặc chất làm tăng tính thấm... để tạo hỗn dịch thử.

+ Khi sử dụng dung môi không phải nước để pha dung dịch hoặc các chất phụ để tạo hỗn dịch, cần chọn các chất không có tương tác với thành phần có trong mẫu thử; các chất này cũng yêu cầu cần có đủ thông tin về độc tính. Lượng dung môi, chất phụ được sử dụng phải nằm trong giới hạn cho phép về độ an toàn của chất đó. Cần thử song song với nhóm động vật đối chứng dùng các chất này.

+ Với các nguyên liệu hoặc thành phẩm là dược liệu được dùng theo phương pháp dân gian như sắc, chiết, chế với nước... thì tiến hành xử lý mẫu như hướng dẫn dự kiến dùng cho người. Trường hợp lượng dịch chiết quá loãng, thể tích dùng thích hợp trên động vật không có ý nghĩa, có thể phải cô đặc để tăng liều dùng. Điều kiện cô đặc phải thực hiện theo những quy định về bào chế đông y (cô cách thủy, nhỏ lửa), hạn chế những tác động gây ảnh hưởng, biến tính chất độc có trong mẫu thử.

+ Trường hợp mẫu thử ở dạng rắn khó tan, khó phân tán mà chưa có dự định về các sử dụng hoặc có thể sẽ dùng nhiều cách chế biến, cần chọn phương pháp xử lý mẫu sao cho mẫu đem thử đại diện tốt nhất cho chất cần thử. Có thể sử dụng phương pháp chiết xuất với các dung môi và điều kiện chiết khác nhau như chiết bằng cồn (với độ cồn và nhiệt độ khác nhau), chiết bằng nước nóng (sắc hoặc hãm). Trường hợp chiết bằng dung môi hữu cơ, cần bốc hơi hết dung môi rồi phân tán cặn thu được trong nước để cho động vật uống. Nếu chiết bằng cồn, có thể bốc hơi bớt cồn, xác định độ cồn có trong dịch chiết để có thể dùng dung dịch có độ cồn thấp hơn tương đương với độ cồn thử cho nhóm đối chứng.

Thao tác cho động vật dùng thuốc phải thành thạo, với dụng cụ thí nghiệm chuyên biệt phù hợp với từng loại động vật. Thuốc nghiên cứu phải có hồ sơ thuyết minh. Trong hồ sơ phải xác định rõ các số liệu của lô thuốc như số kiểm soát, số đăng ký, công thức chế phẩm (trừ trường hợp được giữ bí mật), cách dùng, liều lượng, chỉ định, chống chỉ định và hạn dùng. Trong một số trường hợp nếu cần thiết nên kiểm tra lại tất cả các khâu liên quan đến thuốc thử như độ cồn, chỉ số khúc xạ, độ pH, độ ẩm v.v... trước khi tiến hành nghiên cứu. Thuốc nghiên cứu nên thử nghiệm ngay sau khi nhận về, ngay sau khi mở bao bì. Thuốc phải được bảo quản đúng quy cách trong suốt quá trình thí nghiệm, nếu phát hiện thấy biến chất cần cân nhắc xem xét và có thể phải hủy thuốc. Với thuốc dạng rắn, thử nghiệm đến đâu xử lý đến đấy; với thuốc dạng lỏng chỉ lấy đủ số lượng cho mỗi lần thử, thuốc còn thừa phải hủy ngay sau mỗi lần động vật dùng. Với thuốc dạng cồn, chỉ mở bao bì khi bắt đầu thử nghiệm và chỉ nên dùng thuốc trong ngày. Phải bảo quản tốt độ cồn, không để độ cồn khi thử đã giảm nhiều so với ban đầu. Kết quả thí nghiệm phải trả lời với thuốc ở dạng nguyên phẩm sẽ sử dụng ở lâm sàng và gửi đến để nghiên cứu tiền lâm sàng.

3.3. Điều kiện môi trường thí nghiệm

- Vi khí hậu có ảnh hưởng lớn đến tác dụng của thuốc, đặc biệt đối với một số thuốc đông y. Cần có biện pháp chủ động khống chế vi khí hậu trong phòng thí nghiệm như dùng máy điều hòa nhiệt độ hoặc sử dụng các biện pháp thông thường để tăng, giảm nhiệt độ trong phòng thí nghiệm, ví dụ làm ấm bằng lò sưởi..., hoặc tiến hành thí nghiệm vào các mùa xuân, thu, bắt đầu từ 8 giờ sáng v.v..

- Lưu ý các đặc điểm sinh lý của ĐVTN theo mùa để đề ra kế hoạch nghiên cứu thích hợp trong năm [4].

(Xem tiếp phần sau)

Tài liệu tham khảo

  1. Lê Hữu Nhật Minh, Đặng Phúc Vinh (2019) Thử nghiệm lâm sàng là gì? – Phần 1 , Y học cộng đồng.com, cập nhật 05/7/2020, tại: https://yhoccongdong.com/thongtin/thu-nghiem-lam-sang-la-gi-phan-1/ 
  2. Nghiên cứu sức khỏe () Thử nghiệm lâm sàng là gì? cập nhật 05/7/2020, tại: https://catalyst.harvard.edu/pdf/regulatory/ClinicalTrials_Vietnamese_LowResolution.pdf
  3. Bộ Y tế (2012) Thông tư hướng dẫn về thử thuốc trên lâm sàng , Số:  03/2012/TT-BYT, ngày 02-2-2012.
  4. Bộ Y tế (2015) Quyết định về việc ban hành tài liệu chuyên môn “Hướng dẫn thử nghiệm tiền lâm sàng và lâm sàng thuốc đông y, thuốc thử từ dược liệu”, Số: 141/QĐ-K2ĐT, ngày 27 tháng 10 năm 2015.

Phụ lục

Ngoại suy liều thể tích dung dịch mẫu thử dung cho ĐVTN, phân loại độc

Bảng 1. Ngoại suy liều tương đương giữa các loài [3]

Loài ngoại suy

Loài thực nghiệm

Chuột nhắt trắng

Chuột cống

Thỏ

Chó

Người

Chuột nhắt trắng

1

0,55

0,25

0,15

0,085

Chuột cống

1,82

1

0,45

0,27

0,15

Thỏ

4

2,20

1

0,60

0,34

Chó

6,67

3,67

1,67

1,

0,57

Người

11,76

6,47

2,94

1,76

1

Cách tính: Từ loài động vật thực nghiệm (ở cột dọc), đối chiếu theo hàng ngang tới cột loài cần ngoại suy được hệ số cần phải nhân theo bảng trên.

Ví d:

- Biết liều có đáp ứng trên người là 10 mg/kg. Tính liều có đáp ứng trên chuột nhắt:

10mg/kg x 11,76 = 117,6mg/kg.

Vậy liều dùng cho một chuột nhắt nặng 20g là: 117,6 mg/kg x 20; 1000 = 2,352 mg.

- Tương tự, nếu tính ngược lại: Biết liều có đáp ứng trên chuột cống là 15 mg/kg.

Tính liều có đáp ứng tương đương trên người: 15 mg/kg x 0,15 = 2,55 mg/kg

Nếu tính cho người lớn có trọng lượng khoảng 50 kg, liều có tác dụng là: 2,25 mg/kg x 50 = 112,5 mg.

Bảng.2. Thể tích tối đa dung dịch thuốc có thể sử dụng cho động vật [10]

Loài động vật

Thể tích tối đa có thể dùng (ml/kg) theo đường dùng

 

IV

IM**

IP

SC

Uống

Trực tràng

Chuột nhắt

25

2,5

50

50*

50

2,5

Chuột cống

10

1

20-50

50*

50

2

Thỏ

2-4

0,2

8

4

8

0,4

Mèo

1,7-3,3

0,3

6,7

3,3

16,7

0,33

Chó

1-2

0,5

5,0

1,0

10

0,3

Khỉ

1,7-3,3

0,8

8,3

0,8

8,3

0,5

Ghi chú:     IV: tiêm tĩnh mạch, IM: tiêm bắp, IP: tiêm hốc bụng; SC: tiêm dưới da.

                   * Phân bố trên một khoảng da rộng

                   ** Có thể tiêm vào những chỗ khác nhau.

 

Bảng 3. Phân loại độc tính cấp theo giá trị LD50 gần đúng [4,5]

(Globally Harmonised Classification System for Chemical Substances and Mixtures)

Nhóm

Mức độ độc cp

Liu LD50 gn đúng

1

Cực kỳ độc

>0 - 5 mg/kg

2

Rất độc

>5 - 50 mg/kg

3

Độc

> 50 - 300 mg/kg

4

Độc trung bình

> 300 - 2000 mg/kg

5

Độc tính thấp

> 2000 - 5000 mg/kg

6

Gần như không độc

> 5000 mg/kg

Doctor SAMAN
Vũ Khắc Lương
Phó giáo sư, Tiến sĩ Y học, Giảng viên cao cấp Trường Đại học Y Hà Nội

[{"src":"\/resources\/upload\/images\/07.2020\/thu%20nghiem%20lam%20sang.jpg","thumb":"\/resources\/upload\/images\/07.2020\/thu%20nghiem%20lam%20sang.jpg","subHtml":""}]