Nước Việt Nam nằm trong khu vực có khí hậu nhiệt đới gió mùa, có thảm thực vật phát triển phong phú, đa dạng. Ngoài các loại cây lấy gỗ dùng trong xây dựng, còn có các loại để lấy dầu béo, để làm thuốc… Từ xa xưa cho đến nay, ông cha ta đã biết sử dụng nhiều loại cây để chữa bệnh, có rất nhiều bài thuốc quí được nhân dân ta truyền lại có thể chữa được các bệnh nan y mà việc tìm kiếm nó lại rất đơn giản, kinh tế, do nguyên liệu lấy từ các loại cây quanh ta.
Trong thực tế có rất nhiều loại cây có tác dụng chữa bệnh đã được nghiên cứu kỹ, nhưng cũng có rất nhiều loại hiện nay được sử dụng mang tính kinh nghiệm. Sở dĩ cây cỏ có tác dụng chữa bệnh là do trong đó có các hợp chất hóa học có hoạt tính sinh học.
I- Hoạt chất sinh học là gì
– Hoạt chất sinh học là những hợp chất hóa học tạo ra những phản ứng sinh học trong cơ thể người. Nhóm hoạt chất sinh học là nhóm các hợp chất hóa học có trong thảo dược, khi đưa vào cơ thể, nó tác động đến một chuỗi các quá trình sinh hóa xảy ra trong cơ thể.
Chất có hoạt chất sinh học là các hợp chất tự nhiên có nguồn gốc từ thiên nhiên hoặc được con người tách ra từ các loại động vật, thực vật trong tự nhiên có hoạt tính sinh học trên cơ thể người hoặc có tác dụng dược học dùng để làm thuốc. Chất có hoạt chất sinh học từ cây cỏ có khả năng nâng cao sức khỏe tốt hơn các vitamin, khoáng chất thông thường và không có các tác dụng phụ có hại.
II- Nhóm các hợp chất thiên nhiên có hoạt tính sinh học
Nhóm các hợp chất thiên nhiên có hoạt tính sinh học là nhóm thứ cấp thường gặp trong thực vật là: axid hữu cơ, carbohydrat, chất béo, tannin, tecpenoit, alkaloit, glycozit tim, anthraglycosit, flavonoit, coumarin, saponin, kháng sinh thực vật… Trong bài này chỉ nói về một số tác dụng sinh học , công dụng của các axit hữu cơ và dầu béo có trong thực vật.
1-Các axit hữu cơ
– Trong thiên nhiên axit hữu cơ (với phân tử lượng nhỏ) là những chất hữu cơ thường có vị chua, tan trong nước. có thể tồn tại dưới dạng tự do hay dạng muối với các chất kiềm vô cơ hay hữu cơ hay dạng ester.
– Nhiều cây tích lũy một lượng đáng kể các axit hữu cơ như: chanh, me, nho, táo, khế, chua me v.v…. Ngoài các axit thường gặp là axit oxalic, axit tartric, axit xitric v.v… đôi khi còn gặp các axit đặc biệt như axit benzoic, axit salicylic, axit hydnocarpic v.v….
– Khả năng của các axit hữu cơ trong việc bảo quản thực vật cũng như trong dinh dưỡng vật nuôi đã được biết tới từ nhiều thập kỷ và được chứng minh qua nhiều thí nghiệm khoa học. Axit, bao gồm cả axit propionic đóng góp chủ yếu trong việc đảm bảo vệ sinh thức ăn chăn nuôi, vì chúng ức chế sự tăng trưởng của nấm mốc và do đó hạn chế nguy cơ ảnh hưởng của độc tố nấm mốc. Hiệu ứng này dựa trên cơ sở của việc giảm độ pH trong thức ăn và trong đường tiêu hóa, và mặt khác dựa trên tính kháng khuẩn của axit. Do vậy, từ lâu một số loại axit như axit formic, sorbic và fumaric và muối của chúng cũng đã được cho thêm vào thức ăn chăn nuôi.
– Tính diệt khuẩn của các axit hữu cơ chủ yếu dựa vào khả năng vượt qua màng tế bào và thâm nhập vào trong tế bào vi khuẩn Gram âm khi các axit ở trạng thái không phân ly. Khi ở
trong tế bào, axit phân ly thành cation hydro và anion axit. Các cation làm giảm độ pH bên trong của tế bào vi khuẩn; các anion trực tiếp phá vỡ quá trình tổng hợp AND trong nhân tế bào dẫn đến làm ngừng lại quá trình sinh sản của vi khuẩn.
-Axit xitric được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp thực phẩm, chất hương vị…Ở lĩnh vực hóa sinh thì axit xitric đóng một vai trò trung gian vô cùng quan trọng trong quá trình trao đổi chất xảy ra trong các vật thể sống.
– Các axit glycolic, latic, malic, tartaric, xitric có tác dụng: Kích thích tái tạo da, lột tẩy da chết. giữ ẩm cho da.Được sử dụng làm chất chống oxy hóa cũng như thúc đẩy sản xuất collagen trong tầng trung bì. Nó giúp làm tươi mới da, thúc đẩy tăng trưởng tế bào mới và phá hủy các gốc tự do.
– Trong tinh chất của quả mơ (dựa theo phát hiện của sở nghiên cứu thực phẩm tỉnh Norin Nhật Bản năm 1999) có thành phần chủ yếu bao gồm axit xitric, axit malic, HMF và hydroxy methylfurfural xitric axit este (mumefural) …có nhiều tác dụng như : Sát khuẩn; có tính kiềm siêu mạnh làm cho máu trong cơ thể duy trì ở trạng thái tính kiềm yếu, con người mới có thể khỏe mạnh được. Cải thiện đường ruột, dạ dày; có thể phòng ngừa hiệu quả và cải thiện các bệnh dị ứng với phấn hoa, viêm da và hen suyễn; có tác dụng điều tiết lưu thông máu cho cả những trường hợp máu khó lưu thông; có khả năng ức chế tế bào ung thư. Chất chống oxi hóa
– Các axit hữu cơ thông thường như axit axetic, axit xitric, axit tartric v.v… được sử dụng nhiều trong thực phẩm. Dược liệu chứa axit hữu cơ thường có tác dụng lợi tiểu, nhuận trường.
– Một số axit hữu cơ đặc biệt có các tác dụng riêng như: Axit benzoic (trong cánh kiến trắng) có tính kháng nấm và sát khuẩn, muối natri benzoat có tác dụng long đờm. Axit salicylic (thu được từ salycin trong vỏ liễu) có tác dụng kháng nấm, sát khuẩn, được dùng để bán tổng hợp aspirin. Axit hydnocarpic trong dầu đại phong tử có tác dụng kháng khuẩn, trị lao, hủi. Các axit cafeic, chlorogenic có trong nhiều dược liệu có tác dụng nhuận mật.
2- Chất béo
Chất béo (hay lipit) là những sản phẩm tự nhiên có trong động vật và thực vật là 1 nhóm hợp chất hữu cơ bao gồm những este của axit béo với các alcol. Các chất béo thông thường là este của các axit béo với glyxerol và được gọi là các glyxerit. Chất béo nhẹ hơn nước, tan trong dung môi hữu cơ kém phân cực như benzen, ete, chloroform, ít tan trong cồn và không tan trong nước.
Chất béo thực vật(dầu béo) thành phần có nhiều axit béo chưa no và ở dạng lỏng ở nhiệt độ thường. Chất béo động vật( mỡ) thành phần có nhiều axit béo no và ở dạng đặc ở nhiệt độ thường.
– Chất béo là nguồn thức ăn giàu năng lượng cho con người. Một trong những chức năng chính là cung cấp năng lượng, đặc biệt là duy trì nhiệt độ cho cơ thể. Cùng với các protein và cacbonhydrat chất béo cũng là một thành phần cấu tạo nên tế bào của cơ thể. Phospholipids cung cấp các chức năng quan trọng của tế bào gan và thần kinh.
– Dầu dừa ( theo nghiên cứu do Trung tâm Nghiên cứu Dừa của Mỹ thực hiện công bố gần đây) có tác dụng rất tích cực trong việc giảm viêm nhiễm, đặc biệt là tiêu diệt các loại virút gây bệnh cảm cúm, viêm gan, herpes, SARS, vi khuẩn gây loét, nhiễm trùng, viêm phổi, bệnh viêm đường nước tiểu, bệnh nấm , phát ban vv
– Các dầu béo có nhiều nối đôi được xem là các vitamin F là những chất cần thiết cho cơ thể. Dầu béo có chứa các axit béo không no có tác dụng làm giảm lượng cholesterol trong máu góp phần làm giảm sự xơ vữa động mạch.
– Dầu béo có chứa các axit béo omega-3 và omega-6 (được tạo ra từ chất béo đưa vào cơ thể) là 2 axit vô cùng cần thiết vì chúng không do cơ thể tự tạo ra được nên chúng rất cần cho quá trình trao đổi chất và các hoạt động của con người.
– Chất béo được dùng làm dung môi cho một số loại thuốc tiêm, làm tá dược hay điều chế các tá dược cho thuốc mỡ, thuốc đạn, viên nén v.v… Một số chất béo có tác dụng bảo vệ da và niêm mạc, làm mau lên da non ở các vết thương, vết bỏng. Ngoài ra chất béo còn cung cấp một số nguyên tố vi lượng khác cho cơ thể như: Vitamin tan trong chất béo như A, D, E, K.
GS. Hứa Văn Thao
Nghiên cứu viên cao cấp
Viện Y Học Bản Địa Việt Nam
(Biên soạn)
Doctor SAMAN