Tác giả: Mélanie HumeauKatia BonifaceCharles Bodet, Đại học Bordeaux, Bordeaux, Pháp.

Lược dịch: Hoàng Sầm

Á sừng là bệnh viêm da dị ứng (AD) mãn tính được đặc trưng bởi rối loạn chức năng hàng rào da, rối loạn đáp ứng miễn dịch và sinh học với khuẩn lạc của Staphylococcus. Sự xâm nhập của nhiều tập hợp tế bào trợ giúp T khác nhau vào vùng da bị tổn thương và sau đó giải phóng cytokine là dấu hiệu đặc trưng của AD. 

Sự giải phóng các cytokine bởi cả tế bào T và tế bào sừng đóng vai trò chính trong tình trạng viêm da và gây ra bệnh AD. 

Viêm da dị ứng (AD) là một trong những bệnh viêm da mãn tính phổ biến nhất, ảnh hưởng đến khoảng 15% đến 25% trẻ em và 3% đến 10% người lớn trên toàn thế giới. Các tổn thương thường xuất hiện từ lúc trẻ đến độ tuổi 30. AD được đặc trưng bởi các tổn thương da dạng chàm, khô da, mảng bong tróc ban đỏ và ngứa dữ dội khi bùng phát. 

Cơ chế bệnh sinh của AD rất phức tạp và liên quan đến nhiều yếu tố kết hợp, bao gồm các yếu tố di truyền, rối loạn điều hòa miễn dịch, chủ yếu liên quan đến viêm loại 2; kích thích môi trường, chất gây dị ứng, căng thẳng và rối loạn sinh lý, vi khuẩn với sự xâm nhập của Staphylococcus aureus chiếm ưu thế . AD thường liên quan đến nồng độ globulin miễn dịch E trong huyết thanh tăng cao và tiền sử cá nhân hoặc gia đình mắc bệnh mẫn cảm loại I, tăng nguy cơ phát triển dị ứng thực phẩm, viêm mũi dị ứng hoặc hen suyễn, …với các bệnh đi kèm khác như béo phì, bệnh tim mạch. bệnh tật và ung thư. 

Đặc điểm cổ điển của AD là phản ứng miễn dịch loại 2 mạnh mẽ, rối loạn chức năng hàng rào bảo vệ da, biệt hoá biểu bì kém và tăng tính thấm của da. Sự thâm nhiễm tế bào viêm được tìm thấy ở vùng da bị tổn thương AD được đặc trưng bởi sự hiện diện của các tế bào bạch huyết bẩm sinh loại 2 (ILC2) và các quần thể tế bào T khác nhau sản xuất ra các cytokine thúc đẩy tình trạng viêm chiếm ưu thế loại 2 loại T trợ giúp (Th). Tế bào biểu bì dạng sừng hoá sớm chiếm ưu thế lớp biểu bì, cũng là nhân tố chính trong môi trường gây viêm AD. Những tế bào này tạo thành nguồn cung cấp cytokine chính, bao gồm interleukin (IL)-25, IL-33, và thymic stromal lymphopoietin (TSLP), chemokine và peptide kháng khuẩn điều phối sự xâm nhập của tế bào T cũng như các tế bào miễn dịch bẩm sinh như ILC và tế bào mast ở vùng da bị tổn thương. Hơn nữa, S.aureus góp phần gây ra rối loạn điều hòa miễn dịch và rối loạn chức năng hàng rào bảo vệ. 

Tế bào T trong AD: Sự thâm nhiễm qua da của nhiều tập hợp tế bào T gây độc tế bào CD4+ Th và CD8+ (Tc) có liên quan chặt chẽ đến sinh bệnh học AD. Những tế bào này là nguồn chính làm tăng nồng độ của các cytokine loại 2 như IL-4, IL-5, IL-13 và IL-31, và sự xâm nhập của ILC2 vào vùng da tổn thương góp phần làm tăng Mức độ IL-13 và IL-5. Sự hiện diện của các tế bào Th2/Tc2, Th22/Tc22, Th17 và Th1 so với làn da khỏe mạnh, da AD không tổn thương biểu hiện sự thâm nhiễm tế bào T tăng lên và biểu hiện các cytokine liên quan đến Th2, Th22 và Th1.

Tế bào T điều tiết (Treg) và/hoặc rối loạn chức năng Tregs ở bệnh nhân AD là rất quan trọng trong việc phát triển và duy trì khả năng tự dung nạp qua trung gian cytokine ức chế miễn dịch. Thiếu hụt chức năng Tregs có thể góp phần vào sự phát triển của bệnh AD. 

Sự phát triển gần đây của công nghệ RNA đơn bào đã mang lại cái nhìn sâu sắc mới về đặc tính của tế bào T trong da AD. Các mẫu AD tổn thương được đặc trưng bởi sự biểu hiện mạnh mẽ của các cytokine IL-13, IL-26 và một phần của các cytokine IL-22 trong các tế bào T đã hoạt hóa, các tế bào T tăng sinh và các tế bào TNK. Sự biểu hiện tăng cao của IL-26 được phát hiện có liên quan đến nồng độ IL-17A thấp ở các tổn thương AD ở người trưởng thành, cho thấy các tế bào Th17 bị lệch lạc về mặt chức năng trong quá trình phát triển bệnh. Trong tổn thương AD đã lành ở người lớn, người ta cho rằng miễn dịch lệch Th1 có liên quan đến sự thuyên giảm lâm sàng. Điều thú vị là việc xác định các quần thể cụ thể của các tế bào miễn dịch liên quan đến bệnh duy trì kiểu hình viêm trong bệnh AD đã được giải quyết, bao gồm cả tế bào Th2 và Tc2, cho thấy rằng các tế bào này có thể rất quan trọng đối với sự tái phát bệnh.

Thông qua việc giải phóng các cytokine để đáp ứng với các kích thích của môi trường như kháng nguyên vi khuẩn và chất gây dị ứng, các tế bào sừng góp phần kích hoạt tế bào ILC2 và Th2 cũng như khả năng phản ứng quá mức của da AD. Môi trường viêm dẫn đến nhiều đặc điểm AD như rối loạn chức năng hàng rào, ngứa, khiếm khuyết trong sản xuất peptide kháng khuẩn và sự xâm nhập của cả tế bào miễn dịch bẩm sinh và thích nghi. Do đó, qua trung gian Cytokine giữa tế bào T và tế bào keratinocytes đóng vai trò chính trong sự khởi phát và tiến triển của AD. 

Các protein trong quá trình biệt hóa tế bào sừng dẫn đến hình thành lớp vỏ sừng hóa chịu trách nhiệm về chức năng hàng rào lớp sừng. Rối loạn chức năng hàng rào biểu bì ở da AD bị tổn thương một phần liên quan đến việc giảm mức độ filaggrin và các bất thường về sự liên kết chặt chẽ. Nhiều cytokine được điều hòa tăng cường trong các tổn thương AD, bao gồm IL-4, IL-13, IL-31, IL-22, IL-17A và oncostatin M, được biết là làm thay đổi chức năng rào cản thông qua việc ức chế tổng hợp protein hàng rào biểu bì (corneodesmosin, filaggrin , involucrin, loricrin, keratin-10), các liên kết chặt chẽ (desmocollin, ZO-1, claudin-1, và -4) và/hoặc lipid (axit béo elongase ELOVL3 và ELOVL6, glucocerebrosidase, EO ceramides). Điều thú vị là, IL-24, có biểu hiện tăng lên trong các tế bào sừng và biểu bì được kích thích bằng cytokine Th2 ở bệnh nhân AD, đã được đề xuất như một chất trung gian then chốt để ức chế sự biệt hóa tế bào sừng. Hơn nữa, IL-4 và IL-13 làm tăng biểu hiện trong tế bào sừng của kallikrein (KLK)5 và KLK7, các protein được biết là được điều hòa trong lớp sừng của bệnh nhân AD. KLK là các protease quan trọng liên quan đến sự thoái biến của các phân tử bám dính giữa các tế bào, dẫn đến bong tróc, ức chế tính toàn vẹn của hàng rào và gây ra sự sản xuất cytokine gây viêm bởi các tế bào sừng, bao gồm TSLP. 

Ngoài ra, sự phá vỡ rào cản tạo điều kiện thuận lợi cho sự xâm nhập của các sản phẩm vi sinh vật và các chất gây dị ứng đóng vai trò là tín hiệu nguy hiểm kích thích giải phóng các chất báo động biểu bì điển hình AD (TSLP, IL-25 và IL-33) từ tế bào sừng. Những chất báo động này kích hoạt các tế bào miễn dịch cư trú trên da, bao gồm tế bào T và ILC, đồng thời là tác nhân chính gây ra phản ứng miễn dịch dị ứng.

Vi khuẩn S.aureus (phế cầu khuẩn) và S. epidermidis (tụ cầu vàng) có thể làm trầm trọng thêm tình trạng phá vỡ hàng rào bảo vệ da AD bằng cách tác động trực tiếp lên tế bào sừng. Các hợp chất có nguồn gốc từ S. Aureus , chẳng hạn như axit lipoteichoic (LTA), đã được chứng minh là có tác dụng ức chế sự biệt hóa giai đoạn cuối của tế bào sừng. Các vi khuẩn này vừa là nhiễm khuẩn cơ hội vừa là kháng nguyên và chất gây dị ứng bới các chất tiết của chúng.

Tóm lại:

  1. Với AD, cần loại bỏ các kháng nguyên và các chất gây kích ứng dị ứng;

  2. Ức chế các tế bào T sinh ra các Cytokine từ các tế bào như Th1, Th2, Th22, Th17 … muốn ức chế thì tất yếu phải ức chế NF-kB.

  3. Cocticoid có nguy cơ làm tăng nhiễm khuẩn ở giai đoạn bùng phát vì nó làm suy giảm năng lực miễn dịch, sớm mất hiệu quả do vậy không nên lạm dụng.

Lược dịch: Hoàng Sầm.

[{"src":"\/resources\/upload\/images\/T%20cell%20map.png","thumb":"\/resources\/upload\/images\/T%20cell%20map.png","subHtml":""}]