Sa sút trí tuệ

Trong những năm gần đây, trong các Tạp trí khoa học về y học và các cuộc hội thảo khoa học về chuyên ngành Nội Thần kinh, ở Việt Nam cũng như thế giới, người ta đã đề cập và công bố nhiều nghiên cứu về các bệnh về mạch máu nhỏ của não (BMMN).

   Thuật ngữ “Bệnh mạch máu nhỏ” được sử dụng để phản ánh các hiện tượng lâm sàng, X quang, hoặc bệnh học do bệnh của các động mạch và các tiểu động mạch nhỏ xuyên thấu cung cấp cho các cấu trúc não sâu, và gần đây vai trò của các tiểu tĩnh mạch và các mao mạch cũng bắt đầu được các nhà khoa học nhấn mạnh.

   Sự tiến bộ vượt bậc của khoa học – kỹ thuật trong chẩn đoán hình ảnh, nhất là sự ra đời của chụp cắt lớp vi tính (CT), chụp cộng hưởng từ ( MRI), chụp Spect (xạ hình)…. Đã giúp người ta hiểu sâu hơn  bệnh mạch máu nhỏ. Các kiểu hình bệnh mạch máu nhỏ có ý nghĩa lâm sàng gồm các nhồi máu não sâu nhỏ, các tổn thương chất trắng của não, các xuất huyết não sâu và các vi xuất huyết não.

   Các nhồi máu não Sâu

   Khi sử dụng thuật ngữ “Các nhồi máu  não sâu” là người ta đề cập đến các nhồi máu dưới vỏ não (đường kính từ 3 – 20 mm), được xác định trên chụp cắt lớp vi tính (CT) hoặc trên chụp cộng hưởng từ (MRI), chúng có thể kết hợp với các khiếm khuyết cục bộ cấp tính (các nhồi máu triệu chứng), hoặc được  tìm thấy tình cờ trên chụp hình ảnh não ở những người không có tiền sử đột quỵ lâm sàng (các nhồi máu dưới lâm sàng hoặc “im lặng”). Các thuật ngữ: Nhồi máu lỗ khuyết và hội chứng lỗ khuyết thường được sử dụng để đề cập đến các nhồi máu như vậy.

   Các nhồi máu não sâu cấp tính được phát hiện tốt nhất bằng chụp hình ảnh MRI  khuếch  tán (DWI) và có thể biểu hiện tăng tín hiệu trên các chuỗi xung MRI phục hồi đảo ngược  giảm dịch (FLAIR). Các nhồi máu mạn tính thì giảm tín hiệu trên MRI thiên về T1 và FLAIR. Chúng thường được tìm thấy trong hạch nền, bao trong, cầu não và được xem là các hình ảnh học của “lỗ khuyết”.

   So với các đột quỵ lớn hơn và ở vỏ não, các nhồi máu não sâu ít nghiêm trọng hơn và có biểu hiện lâm sàng có vẻ ít rầm rộ hơn như bệnh nhân có thể liệt nửa người vận động đơn thuần, đột quỵ, cảm giác đơn thuần, đột quỵ cảm giác – vận động, yếu nửa người kèm theo thất điều, rối loạn vận ngôn…. Tuy nhiên, theo tiến triển của bệnh, bệnh nhân có nguy cơ bị suy giảm nhận thức, trầm cảm và suy giảm các chức năng của cơ thể như chức năng điều hành, tốc độ, điều khiển vận động… cũng bị rối loạn.

   Trong nghiên cứu, người ta cũng thấy rằng các nhồi máu sâu dưới lâm sàng, về lâu dài cũng có nguy cơ gây sa sút trí tuệ, đột quỵ lâm sàng, té ngã, và tử vong trong tương lai.

   Các tổn thương chất trắng (TTCT) liên quan đến tuổi

   Các kết quả nghiên cứu về dịch tễ học và bệnh học cho thấy trên cơ sở thiếu máu cục bộ do bệnh mạch máu nhỏ, có thể gây thoái hóa chất trắng nặng. Tuổi và tăng huyết áp vẫn là các yếu tố nguy cơ được xác định hằng định duy nhất trong tổn thương chất trắng. Trong dân số nói chung, tổn thương chất trắng xảy ra ở khoảng 80% của người da trắng ở độ tuổi trên 60, tổn thương chất trắng cũng có mặt ở 2/3 bệnh nhân sa sút trí tuệ và 1/3 những người bệnh Alzheimer.

   Trước sự ra đời của MRI, các TTCT, trên chụp CT người ta đã thấy các khu vực suy giảm chất trắng lan tỏa trên máy CT Scan, và được gọi là thưa chất trắng. Hiện nay, FLAIR là phương pháp chụp hình ảnh tốt nhất để phát hiện các TTCT, nó cho các hình ảnh tổn thương rõ nét và chính xác.

   Hiện nay người ta ít nghi ngờ những người có nhiều TTCT biểu hiện rõ ràng về hiệu quả thể chất, nhận thức và tâm lý. Khi TTCT nhiều, sẽ liên quan đến suy giảm nhận thức, các rối loạn dáng đi, té ngã, xáo trộn tâm trạng và tâm lý, cảm xúc bàng hoàng không ổn định. Các tác động trên nhận thức thường biểu hiện như suy giảm tinh tế chức năng điều hành, sự linh hoạt của nhận thức và tốc độ xử lý các tình huống. Các TTCT và trầm cảm cũng đã được các nhà khoa học chứng minh và khẳng định, các TTCT ở vùng quanh não thất vùng trán có liên quan tới sự bất thường của dáng đi và một nguy cơ cao bị té ngã.

   Một điều quan trọng là trong một phân tích gộp 46 nghiên cứu theo chiều dọc các nhà khoa học đã thấy rằng các TTCT có liên quan  lớn tới nguy cơ bị đột quỵ, sa sút trí tuệ và tử vong trong tương lai. Cho đến nay, người ta cũng nhận thấy chưa có bằng chứng thuyết phục về hiệu quả của các liệu pháp dược lý hoặc lối sống để làm chậm sự tiến triển các TTCT, tuy nhiên trong một số công trình nghiên cứu đơn lẻ cũng cho một số kết quả nhất định, như sử dụng một số thuốc ức chế men chuyển Angiotensin hoặc Statin đã được tìm thấy là có liên quan đến sự tiến triển chậm hơn của các TTCT trên MRI.

   Vi xuất huyết não (VXHN)

   Việc sử dụng rộng rãi MRI đã làm cho việc nhận ra các VXHN tăng lên. Về dịch tễ học, tỷ lệ lưu hành của VXHN là 5% ở người lớn khỏe mạnh, 34% ở những người đột quỵ thiếu máu não cục bộ và 60% ở những người xuất huyết não không chấn thương. Chúng sẽ phổ biến hơn khi người bệnh có đột quỵ tái phát.

   Có một số bằng chứng cho thấy VXHN có liên quan đến suy giảm nhận thức, đặc biệt là khi người bệnh có đột quỵ trước đó.

   Mở rộng các khoang quanh mạch

   Mở rộng các khoang quanh mạch hoặc các khoang Virchow-Robin, được các nhà khoa học quan tâm ngày càng nhiều, khi nghiên cứu BMMN, liệu chúng có liên quan đến sinh bệnh học của các TTCT và các nhồi máu não sâu. Chúng là những phát hiện phổ biến trên não MRI ở người lớn tuổi và có thể giống các nhồi máu sâu trên hình ảnh học. Tuổi cao có liên quan với tỷ lệ gia tăng của các khoảng quanh mạch mở rộng.

   Các cơ chế sự hình thành các khoảng quanh mạch mở rộng, người ta cho rằng do sự thay đổi tính thấm thành mạch máu do viêm hoặc do phá vỡ hàng rào máu – não, tích tụ Amyloid dọc theo thành mạch máu, và teo não. Tuy nhiên, sự liên quan về cơ chế tiềm năng của chúng trong BMMN vẫn là suy đoán, chưa rõ ràng.

   Các dị dạng di truyền của bệnh mạch máu nhỏ

   CADASIL : CADASIL là một bệnh động mạch nhỏ nghiêm trọng, là một dạng di truyền chủ yếu của BMMN, đã dược mô tả rõ, gây ra đột quỵ và các tổn thương chất trắng (TTCT), kèm theo ảnh hưởng đến các mạch máu lớn của não. Đây là bệnh phổ biến nhất trong số các bệnh đơn gen, mà nó dễ gây ra  Đột quỵ xuất huyết có nguồn gốc từ mạch máu nhỏ. CADASIL di truyền trội, bệnh ước tính xảy ra trong khoảng 1,5 – 5,0 trên 100.000 người, được đặc trưng bởi sự khởi đầu sớm của thiếu máu não thoáng qua (TIA) hay đột quỵ, cũng có thể là một tiền căn Migraine, hoặc suy giảm nhận thức, sa sút trí tuệ, trầm cảm, thờ ơ, cơn động kinh…

   Trên MRI có các hình ảnh bất thường như các TTCT và các nhồi máu não nhỏ sâu. Các TTCT trong CADASIL có xu hướng tập trung nhiều ở vùng thái dương trước và bao ngoài, trong khi đó điều này là không bình thường trong quá trình lão hóa, và người ta cũng thấy teo não trong CADASIL tiến triển nhanh gấp 3 lần so với sự lão hóa bình thường.

   Kết luận

   Hiện nay bệnh mạch máu nhỏ(BMMN) là khá phổ biến, và có ảnh hưởng có hại trên chức năng não cũng như sức khỏe con người. Sự ra đời của các kỹ thuật khảo sát thần kinh mới hơn như MRI từ trường cao đã giúp các nhà khoa học nghiên cứu sâu hơn để tìm ra cơ chế bệnh sinh, yếu tố nguy cơ, và phương pháp điều trị để nhằm phòng ngừa và điều trị ngày càng có hiệu quả BMMN nói riêng và các bệnh dẫn đến Sa sút trí tuệ, Teo não nói chung.

Ngô Quang Trúc

Ts.Bs Cao cấp chuyên ngành Thần Kinh

Doctor SAMAN

[{"src":"\/yhbd.vn\/upload\/images\/2013\/11\/sa%20sut%20tri%20tue.jpg","thumb":"\/yhbd.vn\/upload\/images\/2013\/11\/sa%20sut%20tri%20tue.jpg","subHtml":"Sa s\u00fat tr\u00ed tu\u1ec7"}]