PHẦN 1 – ĐỀ CƯƠNG HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN
1. Về kiến thức
– Nắm được các triệu chứng cơ bản và tiêu chuẩn chẩn đoán những tổn thương thường gặp trong chấn thương kín lồng ngực và trong vết thương lồng ngực.
– Nắm được các phương pháp xử trí bước đầu các tổn thương trong chấn thương lồng ngực kín và hở.
2. Về thái độ
– Khám xét khẩn trương, toàn diện nhanh chóng phát hiện kịp thời về nguyên nhân và những rối loạn về sinh lý tuần hoàn, hô hấp đang đe doạ tính mạng người bệnh.
– Thực hiện những thủ thuật cấp cứu bước đầu chính xác và có theo dõi cẩn thận.
3. Về kỹ năng
– Biết đếm nhịp thở, nghe rì rào phế nang, gõ ngực, kiểm tra rung thanh.
– Biết khám được gãy xương sườn, xương ức, xương vai, thấy được mảng sườn di động.
– Lấy được mạch, nhiệt độ, huyết áp.
– Thực hiện được kỹ thuật băng cố định sườn gãy, tiêm truyền, chọc hút dịch, khí khoang màng phổi, màng tim, trung thất, mở khí quản cấp cứu.
– Chỉ dẫn được bệnh nhân nằm ở tư thế Fowler.
PHẦN 2. NỘI DUNG BÀI GIẢNG CHI TIẾT
1. Đại cương
Chấn thương lồng ngực bao gồm chấn thương và vết thương ngực, là một cấp cứu phổ biến trong chiến tranh cũng như thời bình. Đi đôi với những tổn thương giải phẫu từ thành ngực cho đến các tạng bên trong, bao giờ nó cũng kèm theo những rối loạn về sinh lý tuần hoàn và hô hấp, chính những rối loạn này mới là mục tiêu của cấp cứu và điều trị. Cho nên cấp cứu trước hết cần hiểu rõ nguyên nhân của những rối loạn, từ đó mới đề ra được phương pháp cụ thể, đây là điểm khác nhau chính khi đem so sánh chấn thương lồng ngực với các chấn thương khác như bụng, tứ chi… Những thủ thuật cấp cứu trong chấn thương lồng ngực thường đơn giảm, nhưng nó đòi hỏi sự chính xác và theo dõi cẩn thận. Khi thực hiện đúng sẽ góp phần cứu sống đại đa số bệnh nhân.
2. Những thương tổn thường gặp trong chấn thương lồng ngực kín cần xử trí
2.1. Gẫy xương sườn:
2.1.1. Lâm sàng
Sau chấn thương bệnh nhân đau ngực, đau tăng khi thở sâu, ho và hắt hơi, khó thở vì đau nên thường thở nhanh, nông. Đặt tay vào vùng ngực chấn thương có thể thấy dấu hiệu lạo xạo xương khi thở. Dùng ngón tay miết dọc cung sườn sẽ thấy điểm đau chói. Nếu có tổn thương màng phổi, phổi hư: ho ra máu, tràn khi dưới da, tràn máu tràn khí khoang màng phổi. Tràn khí màng phổi có RRFN giảm và gõ vang vùng đỉnh. Tràn máu màng phổi có RRFN giảm và gõ đục vùng đáy. Cần chú ý phát hiện những tổn thương khác kèm theo với gẫy xương sườn: Khi gẫy xương sườn 1, 2 có thể có tổn thương mô mạch thần kinh dưới đòn. Khi gẫy các xương sườn 7, 8, 9 ở vùng mạng sườn phải chú ý ngay tới gan ở bên phải, lách ở bên trái có thể bị vỡ gây nên hội chứng chảy máu trong ổ bụng.
2.1.2. Xử trí kỳ đầu
– Giảm đau: phong bế Novocain 1-2% mỗi điểm 3ml vào gốc dây thần kinh liên sườn xương cứng. Mốc là bờ dưới xương sườn, bờ ngoài khối cơ lưng. Phong bế ngày 1 lần trong 7 ngày. Có thể tiêm ngay vào ổ gãy. Chú ý phải hết sức vô khuẩn. Đây là cách giảm đau tốt nhất. Không nên dùng các thuốc giảm đau như Morphin, Dolargan vì gây ức chế nhất là đồi với người già.
– Cố định: Không nên dùng băng dính to bản cố định vùng xương gẫy vì gây hạn chế hô hấp. Chỉ làm khi không có điều kiện phong bể thần kinh liên sườn lấy băng dính to bản (5cm) băng vòng nửa ngực, từ cột sống đến hết xương ức trong khi thở ra hết, bản nọ chồng lên bản kia 1/3 chiều ngang, băng lên phía trên và xuống phía dưới các xương sườn gẫy 1 xương sườn để băng trong 2 tuần.
– Thuốc: Dùng thuốc kháng sinh, thuốc long đờm.
– Tập thở sâu kết hợp với kích thích ho khạc làm lưu thông đường thở, nhất là đối với người già, người có bệnh phổi, phế quản mãn tĩnh để phòng xẹp phổi, áp xe phổi.
– Nếu bệnh nhân có tràn máu, khí khoang màng phổi gây tình trạng khó thở nhiều do phổi và trung thất bị chèn ép thì phải chọc hút bớt khí máu khoang màng phổi trước khi vận chuyển bệnh nhân về tuyến sau. Tư thế vận chuyển tốt nhất là nằm cáng võng (tư thế Fowler)
– Chọc hút khí qua biên sườn II đường giữa đòn.
– Chọc hút máu qua liên sườn 5, 6 hoặc dưới chỗ gõ đục 1-2 khoang gian sườn trên đường nách sau hoặc đường bả vai, rãnh sống sườn, chỉ nên chức hút lần đầu không quá 500ml.
– Nếu có tràn khí màng phổ áp lực ( tràn khí màng phổi do van trong) Thì cắm 1 kim Petơrốp hoặc kim to có buộc ở đốc kim 1 ngón tay găng cao su có rạch 1 lỗ nhưng nhỏ ở đầu găng vào khoang liên sườn II đường giữa đòn. Dùng kìm Kocher cong kẹp cố định kim vào da, chiều cong kìm Kocher úp vào thành ngực sau đó dán băng dính giữ kìm kocher khỏi rơi. Kim chọc hút khoan màng phổi phải là kim to (10/10 hoặc 12/10) ở đốc kim phải lắp hệ thống van 1 chiều, hoặc lấy đoạn ống cao su để tiêm thuốc ở bộ dây truyền dịch nối vào đốc kim, dùng kìm Kocher kẹp khi tháo bơm tiêm tránh không khí tràn vào màng phổi.
2.2. Mảng sườn di động
2.2.1. Lâm sàng:
– Mảng sườn di động là một phần của thành ngực không còn gắn với khung sườn nữa do có ít nhất 3 sườn liền nhau bị gẫy ở 2 đầu, các ổ gẫy ở mỗi đầu phải gần như cũng nằm trên một đường thẳng.
– Mảng sườn di động là hậu quả của một chấn thương rất mạnh vì vậy có thể có thương tổn kèm theo như vỡ phế quản, rách phổi, rách các mạch máu lớn trong lồng ngực, vỡ các tạng trong ổ bụng… Hậu quả quan trọng trong mảng sườn di động là dẫn tới hô hấp đảo chiều và lắc lư trung thất, không khí bị luẩn quẩn giữa 2 bên phổi lành và bên bị thương, trung thất và tim bị đẩy qua đẩy lại làm cho các mạch máu bị xoắn đi xoắn lại dẫn tới rối loạn về huyết động làm bệnh nhân thiếu ô xy và sốc nặng dễ dẫn đến tử vong. Chẩn đoán mảng sườn di động dựa chủ yếu vào lâm sang: Để bệnh nhân ở tư thế Fowler quan sát sự cân đối của 2 bên lồng ngực phát hiện sự di động ngược chiều của mảng sườn: khi thở vào lồng ngực nở ra, thì chỗ thương tổn lõm xuống. Khi thở ra lồng ngực xẹp xuống thì chỗ thương tổn lồi lên, tạo nên một cử động ngược chiều với toàn bộ lồng ngực, rõ nhất khi bệnh nhân thở sâu hoặc ho.
2.2.2. Xử trí kỳ đầu:
– Cố định tạm thời mảng sườn di động
– Dùng bàn tay ấn nhẹ lên mảng sườn di động.
– Cho bệnh nhân nằm nghiêng về bên có mảng sườn di động
– Đặt bông gạc lên mảng sườn di động và băng quanh lồng ngực làm cho bông gạc đè mảng sườn di động tụt xuống làm nó không di động được nữa.
– Phong bế thần kinh liên sườn, hút đờm dãi kích thích ho khạc, đảm bảo lưu thông đường thở tốt. Nếu bụng chướng phải đặt sonde dạ dày.
– Chọc hút bớt khí máu trong khoang màng phổi nếu có.
– Nếu bệnh nhân suy thở nặng tím tái phải mở khí quản để làm giảm khoảng chết, bệnh nhân dễ thở hơn không phải thở cố do đó giảm được hô hấp đảo chiều. – Cho thuốc kháng sinh và thuốc long đờm
2.3. Tràn khí trung thất:
Nguyên nhân do có tổn thương thanh khí, phế quản, phế mạc tạng ở trung thất. Tràn khí sẽ làm tăng áp lực trong trung thất gây chèn ép tim, mạch máu lớn, phế quản dây thần kinh, hậu quả là rối loạn rất nặng về hô hấp và tuần hoàn.
2.3.1. Triệu chứng
Đau ngực khó thở tăng dần giọng nói có thể bị thay đổi, khí lan ra dưới da, lên cổ, lên cằm, làm cổ và cằm to bạnh ra, tĩnh mạch cổ nổi, mất vùng đục trước tim, nghe rên lép bép vùng trung thất, mạch nhanh huyết áp tụt, có thể có tràn khí phế mạc.
2.3.2. Xử trí kỳ đầu
Cho bệnh nhân nằm tư thế Fowler. Chọc hút khí khoang màng phổi nếu có. Rạch hình cung 6-7cm trên xương ức 1cm bóc tách vào khoang sau xương ức để dẫn lưu trung thất. Nhưng tốt hơn là mở luôn khí quản ở thấp vừa có tác dụng dẫn lưu khí trung thất, vừa giảm được khoảng chết, làm giảm áp lực của đường thở dẫn tới hạn chế được khí rò ra từ đường khí phế quản. Phòng chống sốc, phòng chống nhiễm khuẩn, rồi chuyển bệnh nhân về tuyến sau.
2.4. Tràn máu màng ngoài tim:
Nguyên nhân do tổn thương tim trong chấn thương mà màng ngoài tim còn nguyên vẹn một số bệnh nhân chưa tử vong ngay mà còn sống với triệu chứng của chèn ép tim.
2.4.1. Triệu chứng :
(tam chứng Beck). Huyết áp động mạch thấp. Huyết áp tĩnh mạch cao. Tiếng tim mờ nghe xa xăm. Khám bệnh nhân : Mạch nhỏ, sờ mỏm tim không đập hoặc đập yếu, diện đục của tim rộng ra, tình trạng bệnh nhân nặng, khó thở dẫy rụa.
2.4.2. Xử trí kỳ đầu
Việc chọc hút máu màng ngoài tim vừa có tác dụng chẩn đoán vừa có tác dụng điều trị đối với bệnh nhân có chèn ép do tràn máu màng ngoài tim. Chọc hút máu màng ngoài tim theo đường Marfani, bệnh nhân nằm tư thế Fowler, gây tê tại chỗ, chọc kim vào bên trái mũi ức khi kim đã qua da thì hướng mũi kim lên trên rãnh mặt sau xương ức sâu 3-4 cm, rút pitông bơm tiêm sẽ có máu. Không chọc kim quá sâu vào trung thất máu hút là máu từ tim, kim chọc hút là kim như chọc hút màng phổi hoặc dùng kim luồn. Phòng chống sốc, phòng chống nhiễm trùng rồi chuyển bệnh nhân về tuyến chuyên khoa.
3. Những tổn thương thường gặp trong vết thương lồng ngực cần xử trí cấp cứu kỳ đầu
3.1. Vết thương phổi màng phổi
3.1.1. Vết thương ngực kín
3.1.1.1. Định nghĩa:
Vết thương ngực kín là vết thương có thủng thành ngực và phế mạc thành nhưng ống vết thương được cơ hay máu cục lấp kín lại sau khi tác nhân sát thương (đạn, dao…) xuyên qua, do đó không khí không còn tiếp tục ra vào khoang màng phổi qua ống vết thương nữa.
3.1.1.2. Lâm sàng:
Đau ngực nhất là khi hít sâu những trường hợp có thương tổn lớn phúc mạc thành ngực hoặc gãy xương sườn … thì đau nhiều hơn, đau nên thương bệnh binh thở rất nông, không dám ho khạc, ứ đọng đờm rãi gây ùn tắc khí phế quản. Khó thở ngay sau khi bị thương, khó thở do đau, do tràn máu khí màng phổi làm phổi bị ép lại. Tràn khí dưới da. Ho ra máu là có thương tổn nhu mô phổi. Có hai hội chứng lâm sàng nổi bật là: Hội chứng tràn khí màng phổi: Không khí tràn vào khoang màng phổi qua lỗ vết thương thành ngực hoặc qua vết rách nhu mô phổi, khám lâm sàng có rì rào phế nang giảm, rung thanh giảm, gõ vang nhất là vùng đỉnh phổi. Hội chứng tràn máu màng phổi: Máu tràn vào khoang màng phổi từ thành ngực (Mạch máu liên sườn, mạch vú trong) hoặc từ phổi, hiếm gặp hơn từ trong trung thất, đôi khi máu tràn vào màng phổi từ ổ bụng do có vết thương bụng kết hợp (vết thương ngực – bụng). Khám lâm sàng có hội chứng 3 giảm.
3.1.1.3. Xử trí kỳ đầu:
Băng kín vết thương tốt nhất là có lót ni lon, gạc mỡ…. Giảm đau bằng phong bế gốc dây thần kinh liên sườn tương ứng kích thích, ho khạc đờm. Chọc hút bớt khí máu màng phổi nếu thương binh khó thở nhiều. Phòng chống sốc bằng ủ ấm khi trời lạnh, bổ xung dịch thể bằng đường uống, truyền dịch khi huyết áp động mạch < 90 mmhg. Dùng kháng sinh và SAT. Nhanh chóng chuyển thương binh về sau trong tư thế Fowler. 3.1.2. Vết thương ngực hở
3.1.2.1. Định nghĩa
Vết thương ngực hở là vết thương mất rộng tổ chức thành ngực nên không khí ra vào khoang màng phổi bằng áp lực khí quyển. Đây là loại vết thương nặng vì cũng dẫn tới hô hấp đảo chiều và lắc lư trung thất giống như mảng sườn di động, tỷ lệ tử vong cao nếu không được cấp cứu nhanh chóng.
3.1.2.2. Lâm sàng
Có tiếng phì phò tại vết thương khi thương binh thở hoặc máu chảy từ vết thương ngực có bọt khí, nếu lỗ vết thương rộng có khi nhìn thấy phổi, thấy cơ hoành. Trạng thái toàn thân rấ nặng: Nạn nhân giẫy rụa, hốt hoảng, khó thở, da nhợt nhạt, toát mồ hôi, môi tím tái, cánh mũi phập phồng, thở nhanh nông 40-50 lần/phút, mạch nhanh huyết áp tụt…
3.1.2.3. .Xử trí cấp cứu kỳ đầu
– Nhanh chóng bị kín lỗ vết thương bằng cách đặt lên miệng vết thương một miếng nilon, hoặc vải cao su, (vỏ cuộn băng cá nhân, dùng mặt trong). Nếu không có dùng gạc tẩm mỡ, gạc ướt rồi đặt nhiều gạc lên băng chặt lại. Xử trí tiếp như vết thương ngực kín, chuyển nạn nhân về tuyến phẫu thuật để khâu kín vết thương ngục, dẫn lưu khoang màng phổi bằng sonde Argyle hút liên tục và chọc hút tuz theo hoàn cảnh cụ thể.
3.1.3. Vết thương ngực van
3.1.3.1. Định nghĩa:
Vết thương ngực van là vết thương mà không khí vào khoang màng phổi qua vết thương thành ngực hoặc vết rách nhu mô phổi mà không ra được, do vết thương thành ngực hoặc vết rách nhu mô hình thành một cái van một chiều, hậu quả áp lực trong khoang màng phổi tăng dần lên cao hơn áp lực khí quyển ép chặt lấy phổi, đẩy trung thất sang bên lành gây rối loạn về hô hấp và tuần hoàn rất nặng. Vết thương ngực van ngoài là van ở vết thương thành ngực, Vết thương ngực van trong là van hình thành tại vết rách phổi, phế quản. Van có thể hình thành ngay sau khi bị thương có thể xuất hiện muộn hơn sau khi bị thương một thời gian.
3.1.3.2. Lâm sàng
Nạn nhân khó thở tăng dần lên thở nhanh 40-50 lần/phút, môi tím tái cánh mũi phập phồng, vật vã không nằm yên được, phải ngồi dậy để thở. Gõ ngực rất vang, rì rào phế nang giảm hoặc mất , mỏm tim bị đẩy sang bên đối diện, có thể có tràn khí dưới da mức độ lớn, có thể có tràn khí trung thất. Cắm kim với bơm tiêm vào khoang màng phổi thì pít tông bị đẩy ra.
3.1.3.3. Xử trí cấp cứu kỳ đầu
Cắm ngay 1 bơm tiêm to vào khoang liên sườn II đường giữa đòn để khí từ khoang màng phổi thoát ra ngoài, tốt nhất là là dùng kim Pêtơrốp. Băng kín vết thương thành ngực. Phong bế thần kinh liên sườn, hút đờm dãi lưu thông đường thở. Phòng chống sốc. Cho kháng sinh, SAT. Nhanh chóng vận chuyển nạn nhân về tuyến phẫu thuật trong tư thế Fowler.
NGUỒN
ĐẠI HỌC Y KHOA HÀ NỘI Trang web : www.ykhoaviet.tk
Email : lesangmd@gmail.com, bachkhoayhoc@gmail.com
Điện thoại : 0973.910.357
Viện Y học bản địa Việt Nam trân trọng cảm ơn BS Lê Đình Sáng đã chia sẻ nội dung trên!
Doctor SAMAN