CÁC PHÁC ĐỒ THUỐC VÀ VẮCXIN ĐIỀU TRỊ COVID-19

Người lành, người bệnh nhân và gia đình phải nhận thực và khuyến khích tuân thủ các hướng dẫn về giãn cách xã hội, sử dụng khẩu trang, giảm đi lại, hạn chế tiếp xúc tuân thủ quy định 5K.

Bệnh nhân phải được giáo dục về việc rửa tay thường xuyên trong ít nhất 20 giây bằng xà phòng và nước, dễ hiểu là khi ra ngoài tiếp xúc lan can, tay nắm cửa, vật bề mặt bằng Inox, đồng, gỗ nhẵn ... về rửa tây bằng xà phòng, vừa rửa vừa đếm thong thả đến 20.

Khi đau họng, ho, sốt, mình mảy đau nhức, mất ngửi, tự dưng ỉa chảy, tức ngực khó thở bất thường thì đến ngay trạm y tế xã phường khám làm xét nghiệm; hoặc chưa đi được thì bào ngay chính quyền và tự cách ly.

Toàn dân và bệnh nhân cần nhận thức về hiệu quả của các loại vắc xin hiện có.

Khai báo trung thực nguồn gốc tiếp xúc để bảo đảm cơ quan có thẩm quyền dễ dàng truy vết.

Đeo khẩu trang khi tiếp xúc người lạ hoặc khi ra tiếp xúc người ngoài.

Tuần theo quy định của luật phòng chống bệnh dịch và các chỉ thị, quyết định, công văn của cơ quan có thẩm quyền.

Hệ lụy  covid-19 là gì ?

Người dân không có việc làm, không có gạo tiền;

Sinh ra trộm cắp cướp giật, các loại tội phạm;

Suy thoái kinh tế kéo dài;

Giảm mất khả năng chống thiên tai;

Và gây suy yếu 1 phần năng lực bảo vệ chủ quyền tổ quốc.

Virut covid-19 chết trong điều kiện nào ?

Vi rút này có thể bị bất hoạt hiệu quả bằng dung môi lipid, bao gồm ete (75%), etanol, chất khử trùng có chứa clo, axit peroxyacetic và chloroform ngoại trừ chlorhexidine.

Lửa cồn, đun sôi, nắng nóng kéo dài hơn 72h không thể tồn tại ở môi trường nếu không có vật chủ là con người.

Nhiệt độ ẩm thấp, mưa lạnh, gió lạnh chúng nhanh chóng được phát tán để xâm nhập vật chủ mới.

Sự lây truyền của covid-19

Phương thức lây truyền chính của COVID-19 là tiếp xúc với các giọt bắn khi nói, ho, hắt hơi, bắt tay, ôm hôn, tụ tập hò hét, hội họp trong không gian hẹp, thiếu thông thoáng ...

Sự lây truyền trên máy bay do quy trình tạo sol khí cũng có liên quan đến sự lây lan của COVID-19, việc này chưa được thừa nhận rộng rãi.

Sự lây truyền bề mặt tay vịn, bề mặt đồng, sắt, inox, tay nắm cửa, thang máy ... nhiễm COVID-19, chúng tồn tại 72h ; các bề mặt xốp sự tồn tại của chúng kém hơn, chỉ khoảng 24h. 

Hơn nữa, có vẻ như ô nhiễm ở các đơn vị chăm sóc đặc biệt (ICU) cao hơn so với các khu nói chung, và COVID-19 có thể được tìm thấy trên sàn nhà, chuột máy tính, thùng rác và tay vịn giường bệnh cũng như trong không khí lên đến 4 mét từ những bệnh nhân liên quan đến lây truyền bệnh viện cũng như lây truyền với đồ vật truyền bệnh (fomite). 

Dữ liệu dịch tễ học từ một số nghiên cứu trường hợp đã báo cáo rằng bệnh nhân nhiễm COVID-19 có vi rút sống hiện diện trong phân ngụ ý có thể lây truyền qua đường phân-miệng. 

 Một phân tích tổng hợp bao gồm 936 trẻ sơ sinh từ các bà mẹ có COVID-19 cho thấy khả năng lây truyền theo chiều dọc là có thể xảy ra nhưng xảy ra trong một số ít trường hợp. 

Covid-19 với phổi và cơ quan ngoài phổi

Hệ thống hô hấp là mục tiêu chính của COVID-19 bao gôm viêm phổi đông đặc, giảm mạnh thông khi, giảm oxy máu, tắc mạch, suy hô hập cấp... tử vong, tuy nhiên không chỉ riêng phổi, bệnh này có thể coi là bệnh toàn thân nhưng phổi là nơi chịu tác động chính. Mô phổi khám nghiệm tử thi tổn thương phế nang lan tỏa điển hình, tăng sản bạch cầu loại II, viêm khí quản nhỏ và màng hyalin ở các vùng phế nang; có huyết khối mạch lớn 42%, tiểu cầu (CD61 ​​dương tính), và / hoặc vi thể fibrin 84% trường hợp.

Hệ tim mạch (CVS): viêm cơ tim; từ 39 mô tim case nghiệm tử thi thấy sự hiện diện của bộ gen virus COVID-19 trong cơ tim, các ca khác thấy hội chứng mạch vành cấp tính (ACS) do đông máu; Các cytokine tiền viêm như IL-6 dẫn đến viêm mạch máu.

 Huyết học:  COVID-19 có ảnh hưởng đáng kể đến hệ thống huyết học và cầm máu, giảm bạch cầu chưa rõ cơ chế; tăng đông máu; tạo huyết khối nội mạch.

 Hệ thần kinh trung ương (CNS):  virut xâm nhập vào não và hệ thần kinh trung ương nhưng mô bệnh học các mẫu não từ 18 bệnh nhân tử vong do COVID-19 chủ yếu do thiếu oxy ở não cấp tính mà không tìm thấy virut.

Đường tiêu hóa (GI): gây ỉa chảy và rối loạn tiêu hóa, virut tồn tại trong phân, ngụ ý rằng có thể lây qua nước theo đương phân – miệng, kiểu như dịch lỵ, thương hàn ... trong tế bào chất biểu mô dạ dày, tá tràng và trực tràng thấy dương tính với protein nucleocapsid của virus.

 Gan mật: tổn thương gan do đa yếu tố do kích hoạt của virut, nhiễm mỡ gan, tắc nghẽn mãn tính, hoại tử tế bào gan, tăng sinh dạng nốt. 

Thận: nhiễm độc thận, suy thận, đặc biệt trên nền bệnh thận mạn tính. Nghiệm thi thấy tổn thương ống lượn gần lan tỏa với mất viền bàn chải, thoái hóa không bào đẳng tích và hoại tử, thấy các cụm hạt giống coronavirus có gai trong biểu mô ống và tế bào vỏ thận.

Biểu hiện ở da: Tổn thương ở da giống như những nốt sần giả (40,4%) là những biểu hiện trên da phổ biến nhất; các biểu hiện ngoài da khác là phát ban dát sẩn ban đỏ (21,3%), phát ban dạng mụn nước (13%) và nổi mày đay (10,9%). Ban mạch máu (4%), ban xuất huyết, chỉ thấy ở bệnh nhân cao tuổi, và ban đỏ chủ yếu ở trẻ em. 

Phác đồ điều trị bằng thuốc.

  1. Liệu pháp kháng vi-rút 
  • Remdesivir là thuôc kháng vi-rút phổ rộng, trước đây đã chứng minh hoạt tính kháng vi-rút đối với COVID-19, thuốc rút ngắn thời gian hồi phục ở người lớn. Tuy nhiên, khả năng kháng lại virus đột biến là một mối quan tâm tiềm ẩn và cần được theo dõi.
  • Hydroxychloroquine và chloroquine  đã được đề xuất như các phương pháp điều trị kháng vi-rút đối với COVID-19 ban đầu trong đại dịch sự phối hợp hydroxychloroquine & azithromycin chỉ nên dùng sau phơi nhiễm hoặc bệnh COVID-19 không có triệu chứng. 
  • Lopinavir / ritonavir  là một liệu pháp kết hợp được FDA chấp thuận để điều trị HIV và được đề xuất là liệu pháp kháng vi-rút chống lại COVID-19 trong thời kỳ đầu của đại dịch. Hiệu quả của 2 loại này qua các nghiên cứu đối chứng không cao và ít được dùng.
  •  Ivermectin là một loại thuốc chống ký sinh trùng nó ức chế sự nhân lên của được FDA chấp thuận được sử dụng trên toàn thế giới. Tuy vậy hiện nay được ít dùng vì hiệu quả không cao như kỳ vọng.
  1. Sản phẩm kháng thể trung hòa Anti-COVID-19

Trong máu của những cá nhân phục hồi sau COVID-19 phát triển các kháng thể trung hòa chống lại COVID-19, và thời gian miễn dịch này kéo dài bao lâu là không rõ ràng. Tuy nhiên, vai trò của chúng như là tác nhân điều trị trong việc quản lý COVID-19 đang được theo đuổi rộng rãi trong các thử nghiệm lâm sàng.

  • REGN-COV2 (Casirivimab và Imdevimab):  REGN-COV2 là một hỗn hợp kháng thể chứa hai kháng thể IgG1 không cạnh tranh (casirivimab và imdevimab) nhắm mục tiêu RBD trên protein đột biến COVID-19 đã được chứng minh là làm giảm tải lượng vi rút trong cơ thể. Dữ liệu sơ bộ từ thử nghiệm giai đoạn 3 của REGN-COV (casirivimab / imdevimab) cho thấy tỷ lệ nhập viện hoặc tử vong ở bệnh nhân không nhập viện với COVID-19 giảm 70%. Hiện chủ yếu dùng cho bệnh nhân trên 12 tuổi nhiễm bệnh nhẹ hoặc trung bình.
  • Bamlanivimab và Etesevimab (LY-CoV555 hoặc LY3819253 và LY-CoV016 hoặc LY3832479)  là các kháng thể đơn dòng trung hòa chống tăng đột biến mạnh. Bamlanivimab là kháng thể đơn dòng trung hòa có nguồn gốc từ huyết tương dưỡng bệnh thu được từ bệnh nhân mắc COVID-19. 
  1. Tác nhân điều hòa miễn dịch
  • Corticosteroid:  giảm viêm do tình trạng các tế bào miễn dịch giải phóng các cytokine (xấu) được đặc trưng bởi sự gia tăng các dấu hiệu viêm. Dựa trên kết quả thử nghiệm mang tính bước ngoặt này, dexamethasone hiện được coi là tiêu chuẩn chăm sóc hoặc đơn độc hoặc kết hợp với remdesivir dựa trên mức độ nghiêm trọng của bệnh ở những bệnh nhân nhập viện cần bổ sung oxy hoặc thở máy không xâm nhập hoặc xâm nhập.
  • Interferon-β-1a (IFN-  β-1a):  Interferon là các cytokine (tốt) cần thiết để tăng cường phản ứng miễn dịch đối với nhiễm virus và COVID-19 ngăn chặn sự nhân lên của nó trong ống nghiệmDo không đủ dữ liệu liên quan đến phương pháp điều trị này chỉ dựa trên loạt trường hợp, phương pháp này hiện không được khuyến nghị để điều trị nhiễm COVID-19.
  • Kháng thể đơn dòng kháng thụ thể IL-6:  Interleukin-6 (IL-6) là một cytokine (xấu) tiền viêm được coi là nguyên nhân chính gây ra trạng thái quá viêm liên quan đến COVID-19. FDA đã phê duyệt ba loại thuốc ức chế thụ thể IL-6 khác nhau, chúng đều là nhưng thuốc chữa thấp khớp theo cơ chế ức chế Cytokine xấu: Tocilizumab, Sarilumab và Siltuximab. Lợi ích của 3 loại thuốc này chưa hoàn toàn thuyết phục trong lâm sàng.
  1. Thuốc ức chế Janus kinase (JAK) 
  • Baricitinib  là thuốc ức chế chọn lọc Janus kinase (JAK) 1 và JAK 2 đường uống hiện được chỉ định cho bệnh nhân viêm khớp dạng thấp tiến triển nặng. Baricitinib được coi là một phương pháp điều trị tiềm năng đầy hứa hẹn chống lại tất cả các giai đoạn của COVID-19. Một nghiên cứu hồi cứu, quan sát đa trung tâm trên 113 bệnh nhân nhập viện bị viêm phổi COVID-19 được dùng baricitinib kết hợp với lopinavir / ritonavir (nhánh baricitinib, n = 113) hoặc hydroxychloroquine và lopinavir / ritonavir (nhóm chứng, n = 78) đã báo cáo sự cải thiện đáng kể về lâm sàng các triệu chứng và tỷ lệ tử vong trong 2 tuần ở nhóm baricitinib so với nhóm đối chứng. 
  • Ruxolitinib  là một chất ức chế chọn lọc đường uống khác của JAK 1 và 2 được chỉ định cho các rối loạn tăng sinh tủy, bệnh đa hồng cầu và GVHD kháng steroid. Tương tự như baricitinib, nó đã được giả thuyết là có tác dụng ức chế con đường truyền tín hiệu nội bào của cytokine, làm cho nó trở thành một phương pháp điều trị tiềm năng chống lại COVID-19. 
  • Các chất ức chế tyrosine kinase của Bruton  như  acalabrutinib, ibrutinib, rilzabrutinib  là những chất ức chế tyrosine kinase điều chỉnh tín hiệu và hoạt hóa đại thực bào hiện được FDA chấp thuận cho một số khối u ác tính huyết học. Người ta đề xuất rằng sự hoạt hóa đại thực bào xảy ra trong quá trình đáp ứng miễn dịch quá viêm ở COVID-19 nghiêm trọng. Kết quả từ một nghiên cứu nhỏ ngoài nhãn trên 19 bệnh nhân nhập viện với COVID-19 nặng được điều trị bằng acalabrutinib đã làm nổi bật lợi ích lâm sàng tiềm năng của việc ức chế BTK. [127]  Các thử nghiệm lâm sàng đang được tiến hành để xác nhận hiệu quả thực sự của những loại thuốc này trong bệnh COVID-19 nghiêm trọng.
  1. Oxy liệu pháp và thông khí trong bệnh COVID-19
  • Liệu pháp oxy thông thường: Bệnh nhân COVID-19 có suy hô hấp liên quan nên được theo dõi chặt chẽ bằng phương pháp bổ sung oxy qua ống thông mũi hoặc mặt nạ Venturi. Hiệu quả cứu sống của liệu pháp bảo đảm thông khí và bổ sung oxy là không bàn cãi.
  • Xử trí suy hô hấp cấp do thiếu oxy trong COVID-19: Suy hô hấp cấp giảm oxy máu là biến chứng thường gặp nhất ở bệnh nhân người lớn bị COVID-19. Những bệnh nhân này được quản lý bằng các phương thức hô hấp nâng cao như thông khí đường mũi dòng chảy cao (HFNC), thông khí áp lực dương không xâm lấn (NIPPV), đặt nội khí quản thở máy xâm nhập (IMV) hoặc oxy qua màng ngoài cơ thể (ECMO).
  1. Các thuốc khác dùng theo tình hình cụ thể và các nguy cơ
  • Các thuốc vận mạch nếu có suy tuần hoàn vi mạch;
  • Các thuốc chống đông nếu có bằng chứng tăng đông máu;
  • Các thuốc chống rối loạn tim, thận, não, kháng sinh chống bội nhiễm trong đó ưu tiên Erythomycine và các kháng sinh khác ...
  • Truyền dịch bồi phụ nước và điện giải, bổ sung dinh dưỡng bằng đường tĩnh mạch;
  • Một số loại vitamin tương thích cụ thể như vitamin C, nhóm B ...
  1. Thuốc cổ truyền.
  • Trung Quốc và 1 số nước Trung Á khác đã ban hành nhiều văn bản yêu cầu và bắt buộc các cơ sở y tế sử dụng các bài thuốc chữa cúm mùa có gia thêm các vị thuốc nâng cao miễn dịch, các vị thuốc diệt virut gan B, các vị thuốc chông virut HIV ... để phối hợp thuốc tây chữa bệnh Covid-19 thể nhẹ và trung bình. Các báo cáo từ Trung Quốc cho thấy sự phối hợp này rút ngắn ngày điều trị từ 30-40%.
  • Ngày 17/3/2020 Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Trường Sơn ký công văn số 1306/BYT-YDCT kèm theo tài liệu hướng dẫn sử dụng thuốc cổ truyền, phương pháp y học cổ truyền trong phòng và hỗ trợ điều trị viêm đường hô hấp cấp do Sars-Cov -2 áp dụng trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Trong công văn này có nhiều bài thuốc, 1 trong các bài thuốc đó đã được sản xuất tại Việt Nam, công bố ở dạng thực phẩm bảo vệ sức khỏe, với tên là Zhealth (Zet –heo).
  • Zhealth dạng xi-rô chống viêm họng cấp, viêm họng mãn với hiệu quả cao, đã cấp miễn phí 09 nghìn liều cho các đơn vị đi phòng & chống dịch ở Hà Nội, Đà Nẵng, Bắc Giang ... đợt bùng dịch thứ 3 và 1 phần nhỏ đợt bùng dịch thứ 4. Chúng tôi không có cơ hội dùng điều trị cho bệnh nhân nhiễm bệnh Covid-19 thể nhẹ hoặc thể trung bình, do vậy chưa có dữ liệu lâm sàng. Hiện nay chúng tôi đang tiếp tục sản xuất khoảng 5 000 liều để cấp miễn phí cho các đồng chí tuyến đầu chống dịch.

Đơn vị sản xuất bán thành phẩm cao mềm Zheath là công ty TNHH y học bản địa Việt Nam;   Đơn vị chịu trách nhiệm sản phẩm: Công Ty TNHH Grow Green AZ; Đơn vị sản xuất thành phẩm: công ty NanoFrance tiêu chuẩn GMP.

Phòng ngừa, dập tắt dịch Covid-19 trong tương lai gần duy nhất, căn bản, là biện pháp đặc biệt quan trọng mang tính quyết định là Vác –xin. Tiêm Vắcxin cơ thể người sản xuất kháng thể đặc hiệu nhận diện và tiêu diệt virut, chứ Vắcxin không phải là quần áo bảo hộ, khẩu trang hay tấm khiên thần chống nhiễm virut. Sau tiêm con người vẫn nhiễm virut nhưng sẽ không bị bệnh hoặc nếu bị bệnh cũng sẽ bệnh nhẹ, giảm nguy cơ chết. Do vậy, người sau tiêm vẫn phải thực hiện 5K.

Vắc xin phòng ngừa và chống dịch Covid-19.

  1. Vắc xin BNT162b2 (BioNTech / Pfizer):  phác đồ hai liều tiêm 21 cách nhau vài ngày mang lại khả năng bảo vệ 95%; FDA đã ban hành EUA (Eua-Emergency use Authorization = cho phép sử dụng khẩn cấp) vào ngày 11 tháng 12 năm 2020.
  2. Vắc-xin mRNA-1273 (Moderna) Phác đồ hai liều tiêm cách nhau 28 ngày cho thấy 94,1% hiệu quả; FDA đã ban hành EUA vào ngày 18 tháng 12 năm 2020.
  3. Vắc xin Ad26.COV2.S: đã nhận được EUA bởi FDA vào ngày 27 tháng 2 năm 2021, liều duy nhất của Vắc xin Ad26.COV2.S mang lại hiệu quả 73% ở Hoa Kỳ; (dữ liệu chưa được công bố, chưa rõ lí do – cũng chưa có tên biệt dược);
  4. ChAdOx1 nCoV-19: có hồ sơ an toàn chấp nhận được, đã được phê duyệt hoặc cấp phép sử dụng khẩn cấp ở nhiều quốc gia trên thế giới nhưng chưa nhận được EUA hoặc FDA chấp thuận để sử dụng ở Hoa Kỳ;
  5. Ngoài ra có 1 số loại vắc xin khác của Nga, Trung quốc, Ấn độ, Anh, Nhật .. Việt Nam cũng đang phát triển 1 số loại vắc – xin nhưng chưa được cấp phép sử dụng khẩn cấp trên người.
  6. Hiện nay các nước trên thế giới hướng tới nghiên cứu mới các loại Vắc-xin có hiệu lực với cả chủng gốc và chúng đột biến, trong tương lai gần.

Theo cá nhân tôi thì dịch này sẽ được dập tắt vào khoảng trong năm 2023.

Bác sỹ Hoàng Sầm.

[{"src":"\/resources\/upload\/images\/anh25-6-21.png","thumb":"\/resources\/upload\/images\/anh25-6-21.png","subHtml":""}]