Cây rau muống biển – sự lãng phí quá lớn do thiếu nghiên cứu.

Ngày 17 tháng 5 năm 2022 một ấn bản được xuất bản bởi các nhà khoa học Hàn Quốc về cây rau muống biển {(Ipomoea pes-caprae (Linn.) R. Br. Convolvulaceae)}. Ấn phẩm này cho chúng ta biết nhiều thông tin thú vị và có thể ứng dụng.

Theo truyền thống, muống biển ở Việt Nam và kinh nghiệm dân gian thế giới đã sử dụng cho: 1) đắp vết thương, nhiễm trùng da, lở loét; 2) vết thương do cá độc, cá đuối, con sứa và côn trùng; 3) chứng viêm rối loạn tiêu hóa và đau bụng; 4) trị tăng huyết áp; 5) bệnh thận; 6) kiết lỵ; 7) mệt mỏi, căng thẳng; 8) viêm khớp và thấp khớp; 9) chuột rút; 10) mí mắt, mụn nhọt và đau tai; 11) kiểm soát tiểu đường.

Các thành phần chính của muống biển là alkaloid, norisoprenoid, phenol, terpenoid, steroid và glycoside. Theo tài liệu hiện có đã thấy trong cây có: alkaloid nortropane; norisoprenoid ; phenol; terpenoit; steroid; glycoside; và các hợp chất khác, như xanthoxyline (2-hydroxy-4,6-dimethoxyacetophenone) và 2,4-dihydroxy-6-methoxyacetophenone.

Hoạt tính sinh học của cây muống biển

Các chiết xuất, phân đoạn và các hợp chất phân lập từ muống biển cho thấy: khả năng chống oxy hóa, chống viêm, chống nôn, kháng khuẩn, ức chế collagenase, chống co thắt, chống ung thư, chống tăng sinh, tăng sản mô. Khả năng quét và khử gốc mạnh đối với gốc 2,2-diphenyl-1-picrylhydrazyl với IC 50 là 32,11 µg/mL, hơn hẳn các chất chống oxy hóa tổng hợp có IC 50 là 42,15 và 35,24 µg/mL đối với hydroxyanisole butyl hóa ( BHA) và butylated hydroxytoluene.

Nồng độ thấp của quercetin ức chế peroxid hóa lipid bằng cách tăng biểu hiện thụ thể lipoprotein mật độ thấp (LDL-R), giảm bài tiết proprotein convertase subtilisin/kexin loại 9 (PCSK9) và kích thích hấp thu lipoprotein mật độ thấp (LDL). Khả năng quét dọn gốc tự do cao hơn cả một số flavonoid được thử nghiệm: luteolin, rhamnetin, isorhamnetin và apigenin. Với IC 50 = 0,028 µM, mạnh hơn cả chất chống oxi hóa tiêu chuẩn, vitamin C (0,11 µM) và trolox (0,15 µM).

Hoạt động chống viêm, chống đau

Chất chiết của muống biển chống viêm giảm đau so với aspirin thì tương đương; so với indomethacin thấp hơn chút. Cơ chế được cho là liên quan đến sự hình thành prostaglandin, ức chế hoạt hóa yếu tố hoại tử khối u-α (TNF-α) do yếu tố hạt nhân-kB (NF-κB) gây ra. Dịch chiết metanol muống biển có ID 50  =  33,8 mg/kg ip trong thử nghiệm quằn quại bởi viêm do Acid Acetic và hơn hẳn 1 số thuốc chống đau thông thường.

Hoạt động kháng khuẩn

Hoạt tính kháng khuẩn với hoạt chất chiết tổng có nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) lần lượt là 12,5 và 25 mg/mL đối với Staphylococcus. Ngoài ra nó còn kháng nấm C. albicans và A. niger. β –Sitosterol của muống biển có hoạt tính kháng sinh tương đương Gentamycine lần lượt là 0,048 μM và 0,042 μM.

Hoạt động ức chế collagenase

Sự suy giảm collagen bởi các enzyme collagenase có liên quan đến các bệnh lý khác nhau của con người, chẳng hạn như viêm khớp, ung thư, bệnh tim mạch và bệnh thoái hóa thần kinh, sự nhăn nheo của da, da mặt.  Điều này làm cho ức chế collagenase trở thành một mục tiêu quan trọng cho ngành công nghiệp dược phẩm và mỹ phẩm. Phân đoạn hòa tan trong etyl axetat là hoạt động mạnh nhất so với các phân đoạn khác

Hoạt động chống co thắt

Đặc tính chống co thắt cơ ở hô hấp, tiêu hóa và cơ khác của hoạt chất từ cây muống biển là tương đương với Papaverin. Chưa có nghiên cứu nào về giãn cơ trơn trong vật hang và thể xốp của cơ quan sinh dục.

Các hoạt động chống ung thư, chống khối u và chống tăng sinh tăng sản mô.

Một nghiên cứu toàn diện đã tiết lộ rằng chiết xuất metanol với muống biển thể hiện tác dụng chống khối u ác tính là tốt nhất. Thử với 4 dòng tế bào ung thư biểu mô vòm họng, tế bào vảy cổ tử cung, buồng trứng và ung thư ruột kết cho thấy ED 50 = trong khoảng 5–20 μg/mL.

Stigmasterol, α -amyrin và β –sitosterol trong cây muống biển có có tác dụng chống ung thư dạ dày với IC 50 = 15 μM; ung thư gan người dòng HepG2 và ung thư biểu mô gan người dòng Huh7 cũng lần lượt được nghiên cứu

Công dụng khác

Ngoài các hoạt động sinh học đã đề cập, các nghiên cứu khác cũng báo cáo tiềm năng của một số chất chuyển hóa từ Muống biển: biểu hiện angiotensin - ức chế men chuyển (ACE) với các giá trị IC 50 lần lượt là 180, 71 và 151 μM; khả năng điều hòa miễn dịch tuyệt vời bằng cách ức chế sản xuất TNF-α, interleukin-6 (IL-6) và interleukin-12 (IL-12) ở nồng độ 25 μM lần lượt là 60%, 55% và 70%.

công dụng làm giảm căng thẳng, mệt mỏi và suy nhược cơ, điều trị bệnh thận, trĩ, giảm đau ... bằng cây muống biển gần đây cũng đã được nghiên cứu.

Tóm lại:

Cây muống biển đa hoạt chất sinh học, đa tác dụng nhưng chưa được nghiên cứu và khai thác. Có thể coi đây là nguồn tài nguyên cực lớn đang bị bỏ phí phạm.

Bác sỹ Hoàng Sầm.

[{"src":"\/resources\/upload\/images\/Mu%E1%BB%91ng%20bi%E1%BB%83n.jpg","thumb":"\/resources\/upload\/images\/Mu%E1%BB%91ng%20bi%E1%BB%83n.jpg","subHtml":""}]