SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÁI NGUYÊN Viện nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ sản xuất thuốc và thực phẩm bảo vệ sức khỏe

HOTLINE: 1800 8187
  • Login
Viện Y học Bản Địa Việt Nam
  • Hoạt động Viện
    • Đào tạo toạ đàm
    • Nghiên cứu
    • Sưu tầm thừa kế
  • Tâm thần kinh
    • Động kinh
    • Mất ngủ
    • Tai biến, Đột quỵ não
    • Parkinson
  • Nghiên cứu
  • Ung thư
  • Tiết niệu
  • Tim mạch
  • Sinh dục
  • Thực nghiệm
  • Giới Thiệu
    • Du Lịch Tả Phìn Hồ
    • Chuỗi Phòng Khám
    • Hội Đồng Viện
    • Hồ Sơ Năng Lực
    • VPĐD & Chi Nhánh
  • Tóm Tắt Nghiên Cứu
  • Bệnh tự miễn
No Result
View All Result
  • Hoạt động Viện
    • Đào tạo toạ đàm
    • Nghiên cứu
    • Sưu tầm thừa kế
  • Tâm thần kinh
    • Động kinh
    • Mất ngủ
    • Tai biến, Đột quỵ não
    • Parkinson
  • Nghiên cứu
  • Ung thư
  • Tiết niệu
  • Tim mạch
  • Sinh dục
  • Thực nghiệm
  • Giới Thiệu
    • Du Lịch Tả Phìn Hồ
    • Chuỗi Phòng Khám
    • Hội Đồng Viện
    • Hồ Sơ Năng Lực
    • VPĐD & Chi Nhánh
  • Tóm Tắt Nghiên Cứu
  • Bệnh tự miễn
No Result
View All Result
Viện Y học Bản Địa Việt Nam
No Result
View All Result
Home Hoạt động Viện Nghiên cứu

Bệnh viêm động mạch thái dương – dễ nhầm khó chữa dứt.

BS. Hoàng Sầm by BS. Hoàng Sầm
20/09/2024
Bệnh viêm động mạch thái dương – dễ nhầm khó chữa dứt.

Bệnh viêm động mạch thái dương – dễ nhầm khó chữa dứt.

Jonathan Hutchinson mô tả bệnh viêm động mạch tế bào khổng lồ (GCA) vào năm 1890, và sau đó, Tiến sĩ Bayard T. Horton đã mô tả mô học động mạch u hạt của bệnh viêm động mạch thái dương. GCA còn nhiều tên khác: viêm động mạch Horton, viêm động mạch thái dương, viêm động mạch người già, viêm động mạch sọ và viêm động mạch u hạt.

GCA là một bệnh của người có tuổi, thường bắt đầu từ 50 tuổi trở lên, cứ 5000 người thì có 1 người mắc bệnh này. Nó thường liên quan đến chứng đau đa cơ do thấp khớp. Triệu chứng GCA liên quan các nhánh sọ của động mạch chủ, ngoài ra còn ở động mạch chủ ngực/bụng. Đáng sợ nhất của GCA là mất thị lực không hồi phục thần kinh thị giác do thiếu máu cục bộ, có thể là mù cả hai bên. Điều trị sớm bằng corticosteroid (Dexa, solumedrone, prednisolon …) có thể giảm thiểu các nguy cơ khiếm thị. Các nghiên cứu gần đây cho thấy hiệu quả của chất ức chế interleukin-6, IL-17 trong GCA đã cho thấy một tương lai đầy hứa hẹn trong việc quản lý GCA.

Mô bệnh học là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán GCA là những thay đổi mô bệnh học. Viêm dầy xuyên màng cứng, thâm nhiễm, thu hẹp lòng mạch, tăng sinh nội mạc và phá vỡ lớp đệm đàn hồi bên trong. Các thay đổi huyết khối có thể được nhìn thấy tại các vị trí đang hoạt động. Trong 50% trường hợp xuất hiện tế bào khổng lồ đa nhân vì vậy nên không phải là yêu cầu để chẩn đoán xác định GCA

Đau đầu thái dương, sốt, sụt cân, mệt mỏi và chán ăn khi thấy ở người tuổi trên 50 thì luôn dấy lên những nghi ngại về GCA. Hơn 75% bệnh nhân bị GCA có triệu chứng đau đầu vùng thái dương, nhưng cũng có thể là vùng chẩm, vùng quanh hốc mắt hoặc không khu trú. Nhức đầu có khởi phát âm ỉ và dần dần tăng theo thời gian, hiếm khi chúng tự khỏi. Cường độ các cơn đau đầu có thể dữ dội và không đáp ứng với các loại thuốc giảm đau. Do tính chất lâm sàng không điển hình nên các bác sỹ lâm sàng chỉ thường chẩn đoán chung chung là rối loạn vận mạch hoặc đau đầu chưa rõ nguyên nhân.

Các dấu hiệu thường thấy gợi ý chẩn đoán:

  1. Nhai và hoặc nói nhiều đau tăng;
  2. Sưng vùng thái dương có thể lan toàn mặt;
  3. Sờ không thấy mạch máu động mạch thái dương đập;
  4. Mất thị lực thoáng qua; một hoặc 2 bên;
  5. Mù đột ngột một hoặc cả 2 bên;
  6. Soi đáy mắt thấy đáy mắt nhợt nhạt do thiếu máu, hoặc đã teo thị thần kinh.
  7. Dùng corticosteroid điều trị thăm dò – đỡ ngay;
  8. Đau nhiều cơ không lý giải được;
  9. Thiếu máu não thoáng qua; đặc biệt là đau gáy vì liên quan hệ thống thông sau;
  10. Có thể ho khan, ho có đờm, khàn giọng do thiếu máu hầu họng;
  11. Có thể liệt chi trên, bầm tím, thiếu mạch ở chi trên, mạch không đối xứng và các chỉ số huyết áp ở 2 chi trên chênh lệch lớn, và hoặc tím tái ngọn chi.
  12. Siêu âm mạch thái dương thấy một quầng sẫm xung quanh lòng động mạch thái dương và có độ nhạy 69% và độ đặc hiệu là 82%.

Các thuốc dùng đã được thừa nhận trong phác đồ điều trị.

  1. Corticosteroid
  2. Tocilizumab
  3. Methotrexate
  4. Aspirin liều thấp

Liều điều trị và thời gian điều trị thường do kinh nghiệm của các thầy thuốc mà dài hay ngắn khác nhau nhưng ít khi dưới 26 tuần. Là bệnh liên quan Cytokine qua trung gian miễn dịch như IL-6, IL-17, IL-18 … nên việc bị tái phát là không hiếm.

Đa số bệnh nhân có thể giảm bớt và ngừng sử dụng corticosteroid sau một vài năm kể từ khi bệnh khởi phát, nhưng một số bệnh nhân có thể phải sử dụng corticosteroid liều thấp lâu dài. Những tác dụng không mong muốn của corticosteroid là quá nhiều (13 tác dụng phụ không mong muốn). Do vậy mới đây Viện y học bản địa Việt Nam đề xuất 1 số chế phẩm điều hòa miễn dịch từ dược học cổ truyền như MD100, MTP plus … để thay thế. Sản phẩm thay thế luôn nên có Hoàng Cầm và Rau má, vì nhưng vị thuốc này có khả năng ức chế IL-17 và IL-6.

Tóm lại:  GCA là một bệnh toàn thân mạn tính, cần sự phối hợp của các bác sĩ thấp khớp, bác sĩ nhãn khoa, Miễn dịch và bác sĩ thần kinh. Sử dụng corticosteroid lâu dài, là nền tảng của quản lý GCA.

Hoàng Sầm

 

Số lượt xem: 65
FacebookTwitterSubscribe
Tags: Bệnh viêm động mạch thái dương – dễ nhầm khó chữa dứt.

Bài viết liên quan

TẾ BÀO GỐC UNG THƯ MỚI LÀ MỤC TIÊU ĐIỀU TRỊ SỐ MỘT

TẾ BÀO GỐC UNG THƯ MỚI LÀ MỤC TIÊU ĐIỀU TRỊ SỐ MỘT

02/11/2025
Chè shan tuyết – Tả Phìn Hồ

Kinh nghiệm làm sạch HPV bằng Tỏi và Trà Shan Tuyết của Viện Y học Bản địa Việt Nam

27/10/2025
THUỐC NAM CHỮA UNG THƯ – VÌ SAO HIỆU QUẢ CÒN THẤP?

THUỐC NAM CHỮA UNG THƯ – VÌ SAO HIỆU QUẢ CÒN THẤP?

26/10/2025
Zingiber zerumbet (gừng gió) trong chống ung thư đa đích

Zingiber zerumbet (gừng gió) trong chống ung thư đa đích

25/10/2025
Tiềm năng hạt gấc chống ung thư

Tiềm năng hạt gấc chống ung thư

24/10/2025
Đông Y trong Y học tích hợp cho điều trị Ung thư – hướng đi tương lai

Đông Y trong Y học tích hợp cho điều trị Ung thư – hướng đi tương lai

23/10/2025
Viêm đa cơ tự miễn: Cập nhật cơ chế bệnh sinh, chẩn đoán và hướng điều trị tích hợp

Viêm da cơ tự miễn: cơ chế bệnh sinh, chẩn đoán, phân biệt và hướng điều trị tích hợp

29/09/2025
Viêm đa cơ tự miễn: Cập nhật cơ chế bệnh sinh, chẩn đoán và hướng điều trị tích hợp

Viêm đa cơ tự miễn: Cập nhật cơ chế bệnh sinh, chẩn đoán và hướng điều trị tích hợp

29/09/2025
Human Cytomegalovirus và bệnh Xơ cứng bì hệ thống: Cơ chế bắt chước phân tử và vai trò trong bệnh sinh tự miễn

Human Cytomegalovirus và bệnh Xơ cứng bì hệ thống: Cơ chế bắt chước phân tử và vai trò trong bệnh sinh tự miễn

20/09/2025
Hậu zona và đau dây tam thoa hậu zona: Thách thức lâm sàng điều trị

Hậu zona và đau dây tam thoa hậu zona: Thách thức lâm sàng điều trị

20/09/2025
  • Hoạt động Viện
  • Tâm thần kinh
  • Nghiên cứu
  • Ung thư
  • Tiết niệu
  • Tim mạch
  • Sinh dục
  • Thực nghiệm
  • Giới Thiệu
  • Tóm Tắt Nghiên Cứu
  • Bệnh tự miễn
HOTLINE: 1800 8187

© Copyright 2015 Vietnam Indigenous Medical Institute. All rights reserved. 2024 Viện Y Học Bản Địa Việt Nam Trang thông tin nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ của Viện Y học bản địa Việt Nam & Công ty TNHH Y học bản địa Việt Nam

Welcome Back!

Login to your account below

Forgotten Password?

Retrieve your password

Please enter your username or email address to reset your password.

Log In
No Result
View All Result
  • Hoạt động Viện
    • Đào tạo toạ đàm
    • Nghiên cứu
    • Sưu tầm thừa kế
  • Tâm thần kinh
    • Động kinh
    • Mất ngủ
    • Tai biến, Đột quỵ não
    • Parkinson
  • Nghiên cứu
  • Ung thư
  • Tiết niệu
  • Tim mạch
  • Sinh dục
  • Thực nghiệm
  • Giới Thiệu
    • Du Lịch Tả Phìn Hồ
    • Chuỗi Phòng Khám
    • Hội Đồng Viện
    • Hồ Sơ Năng Lực
    • VPĐD & Chi Nhánh
  • Tóm Tắt Nghiên Cứu
  • Bệnh tự miễn

© Copyright 2015 Vietnam Indigenous Medical Institute. All rights reserved. 2024 Viện Y Học Bản Địa Việt Nam Trang thông tin nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ của Viện Y học bản địa Việt Nam & Công ty TNHH Y học bản địa Việt Nam