Dầu Hoa Anh thảo với phụ nữ
Hiện nay trên thị trường có rất nhiều sản phẩm dạng thực phẩm bổ sung chứa tinh dầu hoa anh thảo, được biết đến với nhiều công dụng trong việc hỗ trợ chống lão hóa, làm đẹp da, cải thiện những dấu hiệu của tiền mãn kinh… được nhiều phụ nữ sử dụng.
Hoa Anh thảo tên khoa học là Oenothera biennis, là loài chiếm số lượng nhiều nhất trong họ Oenothera L. Họ Anh thảo chiều hay họ Nguyệt kiến thảo. Có khoảng 145 loài trong chi Oenothera L., xuất hiện ở vùng khí hậu ôn đới và nhiệt đới ở miền Bắc và Nam Mỹ. Có khoảng 70 loài hiện đang có mặt ở châu Âu. Đây cũng là loài được nghiên cứu nhiều nhất về các tác dụng sinh học.
Oenothera biennis được trồng đầu tiên bởi các thổ dân ở Bắc Mỹ. Họ đã sử dụng cây để điều trị các triệu chứng sưng trong cơ thể và các vấn đề sức khỏe khác. Dầu các loài Oenothera đã được người Ấn Độ sử dụng để làm giảm các rối loạn về da.
Năm 1614, các nhà thực vật học từ Virginia đã mang đến châu Âu để nghiên cứu. Oenothera được giới thiệu ở châu Âu với cái tên ‘king’s cure-all” vua chữa bách bệnh.
Các sách y văn thảo dược cổ đã mô tả Hoa anh thảo có tác dụng làm se và an thần, hữu ích trong điều trị rối loạn tiêu hóa, rối loạn ho, hen suyễn, các khó chịu trên nữ giới và chữa lành vết thương.
Năm 1919, một acid linolenic mới đã được tìm thấy bởi Heiduschka và Lüft khi họ phân tích dầu hạt; họ đặt tên là acid gamma-linolenic (GLA).
Cây Oenothera biennis ưa nắng và những nơi khô cằn với đất mùn và xuất hiện ở độ cao dưới 700 mét so với mực nước biển.
Đặc điểm thực vật:
Cây cỏ, sống 2 năm, chiều cao thân khoảng 150 cm. Lá hình mác, dài 5-20cm, rộng 1-2,5cm. Năm thứ nhất lá mọc thành cụm tròn hình hoa thị, năm thứ 2 mọc thành hình xoắn ốc quanh thân. Hoa lưỡng tính, màu vàng, mọc ở ngọn. Đài 2, đầu xẻ 2 thùy có nhiều lông trắng nhỏ. Tràng 4, màu vàng, cánh tràng hình trái tim cỡ 2,5-5cm. Nhị 8, vàng mảnh; nhụy có núm tròn. Hoa chỉ nở buổi tối và lưu lại đến trưa hôm sau. Quả nang 4 mảnh, cỡ 2-4 cm, chứa nhiều hạt dài 1-2mm. Khi hạt trưởng thành, cách mang mở phát tán hạt . Hạt là thức ăn quan trọng của chim, côn trùng. Mùa hoa: Tháng 4-6.
Thành phần hóa học:
Thông thường, dầu Anh thảo được lấy từ hạt bằng phương pháp ép lạnh. Hạt chứa khoảng 20% dầu. Lượng dầu phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như giống cây trồng và điều kiện sinh trưởng.
Dầu Anh thảo là sự pha trộn của khoảng 13 phân đoạn triacylglycerol, trong đó sự kết hợp chủ yếu bao gồm các acid béo sau: linoleic–linoleic–linoleic (LLL, 40%), linoleic–linoleic–γ-linolenic (LLLnγ, khoảng 15%), linoleic–linoleic–palmitic (LLP, khoảng 8%), and linoleic–linoleic–oleic (LLO, khoảng 8%).
Dầu bao gồm triacylglycerol, khoảng 98% với một lượng nhỏ các lipid khác và khoảng 1-2 % phần không xà phòng hóa.
Dầu Anh thảo có chứa hàm lượng rất cao acid linoleic (70-74%) và acid γ-linolenic (8 -10%), và cũng chứa các acid béo khác như: acid palmitic (7-10%), acid oleic (6-11%), acid stearic (1,5–3,5%) và lượng nhỏ hơn acid myristic, acid oleopalmitic, acid vaccenic, acid eicosanoic và acid eicosenoic. Tỷ lệ các phospholipid chỉ khoảng 0,05% trong dầu và chứa các phospholipid sau đây: phosphatidylcholines (31,9%), phosphatidylinositols (27,1%), phosphatidylethanolamines (17,6%), phosphatidylglycerol (16,7%) và acid photphatidic (6,7%).
Dầu Anh thảo có chứa các alcol aliphatic không vòng, chiếm khoảng 798 mg /kg dầu, 1-tetracosanol (khoảng 237 mg / kg dầu) và 1-hexacosanol (khoảng 290 mg/kg dầu) có số lượng lớn nhất. Các triterpen chính có mặt là β-amyrin (khoảng 996 mg/kg dầu) và squalene (khoảng 0,40 mg / kg dầu). Dầu chứa một lượng nhỏ các tocopherol: α-tocopherol (76 mg / kg dầu), γ-tocopherol (187 mg / kg dầu) và δ-tocopherol (15 mg / kg dầu).
Dầu hoa anh thảo cũng chứa các polyphenol, chẳng hạn như hydroxytyrosol (1,11 mg / kg dầu), vanillic acid (3,27 mg / kg dầu), vanillin (17,37 mg / kg dầu), acid p-coumaric (1,75 mg / kg dầu) và acid ferulic (25,23 mg / kg dầu) [1,2].
Chiết xuất Methanol phần trên mặt đất của Oenothera biennis chứa chủ yếu là các acid phenolic và các flavonoid.
- Các Acid phenolic có trong chiết xuất được phân tích bao gồm các hợp chất: Acid gallic và các dẫn xuất ester của nó (Methyl gallate, Galloylglucose, Digalloylglucose, và Tris-Galloylglucose), acid 3-p-feruloylquinic, acid 3-p-coumaroylquinic, acid 4-p-feruloylquinic, pentoside acid caffeic, acid ellagic và các dẫn xuất ester của nó và acid valoneic dilactone.
- Flavonoid có trong chiết xuất bao gồm những hợp chất: myricetin 3-O-glucuronide, quercetin 3-O-galactoside, quercetin 3-O-glucuronide, quercetin 3-O-glucoside, quercetin pentoside, quercetin dihexoside, quercetin glucuronylhexoside, quercetin 3-O- (2 Từ-galloyl) -glucuronide, kaempferol 3-O-rhamnoglucoside, kaempferol 3-O-glucoside, kaempferol 3-O-glucuronide, kaempferol 3-O- (2 ERIC-galloyl) -glucuronide và kaempferol pentoside.
Chiết xuất lá của Oenothera biennis chứa các hợp chất phenolic (ellagitannin và acid caffeoyl tartaric) và flavonoid (quercetin glucuronide và kaempferol glucuronide). Các tannin có trong lá của Oenothera biennis là oenothein A và oenothein B. Các carbohydrate có trong chiết xuất bao gồm arabinose, galactose, glucose, mannose, acid galacturonic và acid glucuronic.
Rễ cây Oenothera biennis có chứa các Sterol: Sitosterol, Oenotheralanosterol A, và Oenotheralanosterol B. Acid triterpenes maslinic và acid Oleanolic cũng có mặt trong rễ, cùng với các Carbohydrate sau: Arabinose, Galactose, Glucose, Mannose, Galacturonic acid và acid Glucuronic. Các Tannin sau đây cũng được tìm thấy: acid Gallic, Tetramethylellagic acid, Oenostacin và acid 2,7,8-trimethylellagic.
Các chiết xuất Methanol của rễ Oenothera biennis cũng sở hữu một lượng đáng kể xanthone (9H-xanthen-9-one) và các dẫn xuất của nó, chẳng hạn như dihydroxyprenyl xanthone và cetoleilyl diglucoside, có đặc tính sinh học và dược lý đa dạng.
Tác dụng dược lý
Tác dụng trên da: Tác dụng sinh học của dầu Oenothera biennis là nhờ các thành phần và tính chất sinh học của các thành phần trong đó. Vì các thành phần quan trọng nhất về số lượng là các axit béo không bão hòa đa (polyunsaturated fatty acids – PUFA), chủ yếu là axit linoleic (LA) và axit γ-linolenic (GLA) thuộc nhóm axit omega-6.
Linoleic acid đóng một vai trò quan trọng trong chức năng của da, đặc biệt là lớp sừng, trong đó nó là một trong những thành phần chính của lớp lipid.
Tác dụng trên sinh lý nữ:
Một tổng quan của bốn nghiên cứu lâm sàng báo cáo những cải thiện trong các triệu chứng của hội chứng tiền kinh nguyệt (PMS) sau điều trị với dầu Oenothera biennis.
Hội chứng tiền mãn kinh, mãn kinh:
Dựa trên các cơ sở dữ liệu Medline, Scopus và Cochrane của các thử nghiệm có đối chứng (RCT) nghiên cứu về hiệu quả của các loại thuốc thảo dược trên triệu chứng nóng bừng ở phụ nữ tiền mãn kinh và mãn kinh. Kết quả chứng minh rằng thảo dược như dầu Oenothera biennis có thể làm giảm nóng bừng và làm giảm các tác động tiêu cực của nóng bừng.
Tác dụng chống dị ứng:
Oleum Oenotherae Bienni thêm vào chế độ ăn làm giảm mức độ nghiêm trọng của dị ứng phế quản khi gặp tác nhân dị ứng; các phản ứng ít nghiêm trọng hơn trên động vật thử nghiệm 80 phút sau khi điều trị (giảm 86%) so với những động vật thử nghiệm sau 10 phút (giảm 33%).
Ảnh hưởng đến mức cholesterol và chất béo trung tính:
Dầu Oenothera biennis giúp giảm mức cholesterol và chất béo trung tính trong huyết tương và gan. Dầu cũng tăng nồng độ lipoprotein mật độ cao, IgG và bạch cầu trong huyết thanh chuột cho ăn một chế độ ăn thường xuyên chứa 10% dầu cố định trong 6 tuần.
Tác dụng hạ huyết áp:
Chuột được cho ăn chế độ ăn chứa 11% dầu Oenothera biennis cố định trong 7 tuần cho thấy sự giảm sự phát triển tự phát của tăng huyết áp. Sử dụng dầu cố định cho chuột (9% chế độ ăn) làm giảm rối loạn nhịp tim do thiếu máu cục bộ.
Tác dụng chống loét:
Dầu Oenothera biennis cũng giúp bảo vệ niêm mạc dạ dày khỏi bị hư hại bởi các chất hoại tử (0,6mol/l axit clohydric, 0,2mol/l natri hydroxit và 80% ethanol).
Hỗ trợ trị liệu ung thư:
Dầu Oenothera biennis (EPO) có hàm lượng acid linoleic (LA) (70% -74%) và acid γ-linolenic (GLA) rất cao (8 -10%), chính các hợp chất này có thể đóng góp vào tác dụng của dầu Oenothera biennis đối với các mô của người vì chúng là tiền thân của các eicosanoids chống viêm.
Acid γ-linolenic gây ra sự gia tăng biểu hiện của gen ức chế di căn nm-23 trong các tế bào ung thư, dẫn đến ức chế sự hình thành mạch, di chuyển tế bào ung thư và di căn ung thư.
Sự hình thành của những thay đổi này cũng liên quan đến việc giảm biểu hiện của yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu (VEGF), có vai trò quan trọng trong bệnh ung thư.
Theo y học cổ truyền
Các bộ lạc sử dụng rễ bên ngoài để điều trị mụn nhọt. Ngoài ra, chúng còn được nhai và cọ xát vào các cơ để cải thiện sức mạnh. Người Mỹ bản địa đã làm thuốc đắp từ cây hoa anh thảo để trị vết bầm tím và vết thương, đồng thời sử dụng nước ép từ thân và lá của nó làm thuốc bôi chữa viêm da. Lá được dùng uống để chữa các bệnh về đường tiêu hóa và viêm họng. Vào thế kỷ 17, dầu hoa anh thảo đã trở thành một phương thuốc dân gian phổ biến ở châu Âu, được gọi là “phương thuốc chữa bệnh của vua”.
Theo y học hiện đại
Dầu Oenothera biennis giàu các loại axit béo thiết yếu, góp phần hình thành các khối của màng tế bào và cung cấp một loạt các hormone và các chất tương tự hormone cần thiết cho cơ thể, giúp duy trì và phát triển các chức năng của trí não, sự tăng trưởng cùng phát triển bình thường của cơ thể. Thực phẩm chức năng từ dầu Oenothera biennis có tác dụng điều trị viêm da dị ứng, viêm khớp dạng thấp, hội chứng tiền kinh nguyệt (PMS), đau vú, các triệu chứng mãn kinh. Dầu Oenothera biennis cũng có thể có trong các sản phẩm bôi ngoài da. Nhờ các axit béo thiết yếu, tác dụng của dầu Oenothera biennis sẽ giúp bạn tạo ra một môi trường lành mạnh trong cơ thể để dễ thụ thai. Ngoài ra, thảo dược này còn giúp giảm cân và sản sinh các hormone cân bằng. Hơn nữa, dầu Oenothera biennis khi được dùng mỗi ngày sẽ giúp tăng dịch nhầy ở cổ tử cung cũng như tăng cường chức năng trao đổi chất.
Dầu hạt anh thảo chứa axit gamma-linolenic (GLA). Dầu hoa anh thảo uống (EPO) đã được sử dụng để điều trị hiện tượng đầu vú Raynaud ở các bà mẹ đang cho con bú. Việc bổ sung dầu hoa anh thảo cho các bà mẹ đang cho con bú làm tăng hàm lượng axit linoleic và GLA toàn phần trong sữa mẹ cộng với chất chuyển hóa là axit Duomo-gamma-linolenic không gây ra phản ứng bất lợi nào ở trẻ bú mẹ. Dầu hoa anh thảo được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ công nhận là an toàn (GRAS) như một loại thực phẩm.
Ngày nay, hoa anh thảo chủ yếu được biết đến với công dụng làm thực phẩm và làm thuốc. Rễ có thể được ăn sống hoặc nấu chín như khoai tây. Lá của hoa anh thảo có thể sử dụng từ tháng 4 đến tháng 6 khi cây chưa ra hoa. Chúng có thể được ăn sống trong món salad hoặc nấu chín như rau bina hoặc trong súp. Thân hoa bóc vỏ và sau đó có thể được ăn sống hoặc chiên. Nụ hoa có thể ăn sống trong món salad, ngâm dầu, chiên hoặc nấu súp. Hạt có hàm lượng protein khoảng 15%, hàm lượng dầu 24% và chứa khoảng 43% cellulose được sử dụng tương tự như mè rang và bánh ngọt.
NCV Nguyễn Thu Trang (lược dịch)