Cây lá ngón rất độc nhưng có thể dùng làm thuốc chữa bệnh.
Cây lá ngón tên khoa học là Gelsemium elegans Benth (GEB), còn gọi là cỏ đau lòng, đoạn trường thảo, là một loại cây có độc tính cao thuộc họ Loganiaceae và chi Gelsemium. Từ tháng 4 năm 2016 Viện Y học bản địa Việt Nam đã giao nhiệm vụ cho GS. Hứa Văn Thao nghiên cứu, định liều và bào chế vị thuốc quý và độc đáo này. Mẫu vật nghiên cứu là toàn cây lá ngón thu hái ở vùng Tả Phìn Hồ – Hà Giang, nơi đó là khu trồng dược liệu và du lịch dược liệu. Đến năm 2019 chúng tôi đã mạnh dạn áp dụng kết quả nghiên cứu vào chữa 1 số bệnh, có hiệu quả cao. Chúng tôi tổng hợp và lược dịch những nét chính về cây thuốc này theo nguồn chủ yếu từ ncbi.nlm.nih.gov. Để ngắn gọn và dễ hiểu chúng tôi không đi dẫn nguồn các nghiên cứu hoặc trích dẫn biểu đồ, dữ liệu … mà đi thẳng vào 1 số vấn đề được cho là cung cấp kiến thức đúng và quan trọng.
Indole alkaloid là thành phần hoạt động chính của GEB và có nhiều chức năng dược lý và sinh học. Chúng có đặc tính chống ung thư, chống viêm, giảm đau và điều hòa miễn dịch với liều điều trị khá gần với liều gây độc. Sử dụng indole alkaloid liều nhỏ không có tác dụng hiệu quả, trong khi sử dụng liều cao dễ gây ngộ độc, làm trầm trọng thêm tình trạng của bệnh nhân. Cần đặc biệt thận trọng, nhất là quan sát diễn biến tình trạng bệnh tật của người bệnh trên lâm sàng.
Chất Koumine là một alkaloid tách chiết từ rễ, vỏ thân, lá của cây là ngón được sử dụng nghiên cứu trên tế bào ung thư vú ở người. Sau khi ủ Koumine với tế bào ung thư vú trong 48 giờ, các biểu hiện tế bào chết theo chương trình (apoptotic) điển hình đã được quan sát bằng xét nghiệm thuốc nhuộm Hoechst 33258. Kết quả cho thấy koumine có tiềm năng trở thành một tác nhân hóa trị liệu ung thư vú trong tương lai.
Các thành phần hoạt động chính của GEB là indole alkaloid bao gồm sáu loại: Sarpagine; methyl gelsedine, gelsemine, humantenine, koumine, và yohimbane. Chiết xuất của GEB chứa gần 100 alkaloid trong sáu loại này, với hàm lượng koumine cao nhất, tiếp theo là gelsevirine, gelsemine, humantenine và gelsenicine. Ngoài ra, GEB còn chứa nhiều loại iridoid glycoside, iridoid, steroid và các hợp chất không phải là alkaloid khác. Tuy nhiên, thành phần hóa học của GEB từ các nguồn gốc khác nhau là khác nhau.
Tác dụng chống ung thư
Các alcaloid chiết xuất từ GEB đã được chứng minh có tác dụng chống khối u trong phòng thí nghiệm và trên người bệnh. Trong số đó, koumine có tác dụng chống khối u mạnh nhất có thể thông qua việc ngăn chặn chu kỳ tế bào và thúc đẩy quá trình chết theo chương trình. Tác dụng chống khối u của koumine tốt hơn gelsemine và 1-methoxygelsemine. Koumine gây ra quá trình chết theo chương trình của các tế bào ung thư ruột kết SW480 ở người và ngăn chặn quá trình chuyển đổi S/G2 trong chu kỳ tế bào. Ngoài ra, koumine, gelsemine, gelsenicine và 1-methoxygelsemine đã chứng minh các hoạt động chống khối u trong đường tiêu hóa theo cách phụ thuộc vào liều lượng. Koumine có tác dụng chống khối u đáng kể trong ống nghiệm và trong cơ thể sống, không chỉ ức chế sự tăng sinh của nhiều dòng tế bào phổ biến mà còn có tác dụng ức chế đáng kể đối với các khối u được cấy ghép ở chuột. Điều thú vị là tác dụng ức chế của koumine đối với ung thư trực tràng dẫn đến việc kích hoạt con đường apoptotic bằng cách giảm sự biểu hiện của gen tế bào B lymphoma-2 (Bcl-2). Gelsebanine được chiết xuất từ thân và lá của GEB, có tác dụng gây độc tế bào mạnh đối với dòng tế bào ung thư biểu mô tuyến phổi A549 ở người. Gelsedine và các alkaloid khác của GEB có tác dụng gây độc tế bào mạnh đối với dòng tế bào ung thư biểu bì A431 ở người. Những nghiên cứu này cho thấy GEB có tác dụng ức chế sự phát triển của ung thư gan, ung thư ruột kết, ung thư dạ dày, ung thư trực tràng, ung thư biểu mô tuyến phổi và tế bào ung thư biểu mô biểu bì. Những phát hiện này đặt nền tảng thực nghiệm và định hướng cho các nghiên cứu thuốc sau này.
Cơ chế chống ung thư của GEB
Thành phần hoạt động | Loại khối u | cơ chế | EC 50 (mm)/EC 50 (um) |
Koumine | Tế bào ung thư gan H22 | Ức chế sự phát triển của các khối u rắn có nguồn gốc từ H22 ở chuột | |
Koumine | Tế bào ung thư ruột kết SW480 ở người | Gây ra quá trình chết theo chương trình và chặn quá trình chuyển đổi S/G2 trong các tế bào SW480 | EC 50 : 0,45 ± 0,10 |
Gelsenicine | Tế bào ung thư ruột kết SW480 ở người | Ức chế tăng sinh tế bào khối u | EC 50 : 0,52 ± 0,22 |
Gelsenicine | MGC80-3 tế bào ung thư dạ dày ở người | Ức chế tăng sinh tế bào khối u | EC 50 : 1,14 ± 0,23 |
N1-methoxygelsemine | Tế bào ung thư ruột kết SW480 ở người | Ức chế tăng sinh tế bào khối u | EC 50 : 1,41 ± 0,06 |
N1-methoxygelsemine | MGC80-3 tế bào ung thư dạ dày ở người | Ức chế tăng sinh tế bào khối u | EC 50 : 1,22 ± 0,01 |
Koumine | Tế bào ung thư đại trực tràng ở người HCT116 | Bằng cách giảm biểu hiện của Bcl-2 để kích hoạt con đường apoptotic; biểu thức của Bcl-2 có liên quan đến sự gia tăng của BAX, CytC và caspase-3 | EC 50 : 0,07056 |
Koumine | Tế bào ung thư đại trực tràng HT29 ở người | Bằng cách giảm biểu hiện của Bcl-2 để kích hoạt con đường apoptotic; biểu thức của Bcl-2 có liên quan đến sự gia tăng của BAX, CytC và caspase-3 | EC 50 : 0,06282 |
Gelsebanine | A549 tế bào ung thư biểu mô tuyến phổi ở người | Có khả năng gây độc tế bào mạnh trong tế bào A549 | EC 50 : 6,34 × 10 −4 |
6, Gelsenicine | Tế bào ung thư biểu bì A431 ở người | Có khả năng gây độc tế bào mạnh trong tế bào A431 | EC 50 : 37 |
7, Gelsedine | Tế bào ung thư biểu bì A431 ở người | Có khả năng gây độc tế bào mạnh trong tế bào A431 | EC 50 : 0,35 |
8, Gelsemiaine | Tế bào ung thư biểu bì A431 ở người | Có khả năng gây độc tế bào mạnh trong tế bào A431 | EC 50 : 0,75 |
Tác dụng chống viêm và giảm đau
Alkaloid toàn phần và các hoạt chất chính của GEB có vai trò nhất định trong điều trị chống viêm và giảm đau, chủ yếu điều trị đau do bệnh thần kinh, viêm khớp dạng thấp, loét da và khối u. Tuy nhiên, tác dụng giảm đau của chúng không phụ thuộc vào sự phát triển của sự dung nạp. Điều đáng chú ý là các alkaloid của GEB cũng có tác dụng chống viêm rõ rệt trong điều trị giảm đau. GEB alkaloid làm tăng ngưỡng đau ở chuột mà không gây ra sự dung nạp so với morphine. Ngoài ra, sự kết hợp của GEB alkaloids, pentobarbital natri và chloral hydrat đã được tìm thấy để tăng cường tác dụng thôi miên đối với động vật. Koumine làm giảm đáng kể tổn thương sợi trục thần kinh tọa và myelin, nhưng lại tăng tốc độ dẫn truyền thần kinh cảm giác ở động vật. Đáng ngạc nhiên là liều hiệu quả 50 (EC 50 ) thấp hơn nhiều so với liều gây chết một nửa 50 (LD 50 ) (khoảng tin cậy 95%: 100–200 µg/kg), cho thấy rằng gelsedine có thể được sử dụng để giảm viêm và đau thần kinh và phải có độ an toàn điều trị tốt. Điều đặc biệt đáng lo ngại là, nếu dùng làm thuốc giảm đau cần xây dựng cơ chế quản lý liều và lượng dùng chặt chẽ.
Tác dụng chống lo âu
Koumine liều thấp có tác dụng chống lo âu đáng kể và không ảnh hưởng đến các chức năng sinh lý và thần kinh tự chủ khác. Cơ chế của nó có thể không chỉ làm tăng mức độ neurosteroid pregnenolone và allopregnanolone ở vùng hải mã, mà còn có thể liên quan đến tác dụng chủ vận đối với các thụ thể glycine. Nồng độ thấp (5–10 µg/kg) koumine làm giảm đáng kể tình trạng suy giảm nhận thức do beta amyloid của bệnh Alzheimer [AD], cho thấy rằng koumine ức chế sự tăng sinh của các tế bào thần kinh đệm liên quan đến AD. Những phát hiện này đặt nền tảng nhất định cho việc điều trị AD và các bệnh thoái hóa thần kinh liên quan.
Tác dụng điều hòa miễn dịch
Koumine không chỉ ức chế sự tăng sinh của tế bào lympho T CD4+ mà còn ức chế hoạt động miễn dịch của tế bào lympho T trong ống nghiệm. Các nồng độ khác nhau của Koumine làm giảm đáng kể nồng độ IL-2 và Interferon-c cũng như các Cytokine của tế bào T hỗ trợ loại 1 (Th1), ví dụ, 100 µg/mL koumine làm tăng đáng kể nồng độ IL-10, nhưng không phải IL-4 trong Tế bào Th2. Cần lưu ý rằng nồng độ nhất định của koumine cũng tạo ra sự biệt hóa của tế bào Th1 thành tế bào Th2 thông qua tương tác miễn dịch – viêm, gây ra tác dụng chống vảy nến. Ngoài ra, koumine làm giảm sản xuất IL-1β và TNF-α để cải thiện tổn thương khớp, do đó làm giảm đau do viêm khớp. Nó cũng cải thiện sự lắng đọng của bạch cầu và hồng cầu, đồng thời ức chế tuyến ức và gan to, điều này có liên quan đến sự gia tăng kháng thể kháng collagen loại II trong huyết thanh sau phản ứng miễn dịch. Nồng độ cao của koumine ức chế đáng kể sự tán huyết qua trung gian bổ thể. Koumine không chỉ làm giảm rối loạn chức năng hàng rào ruột do LPS gây ra, mà còn làm giảm stress oxy hóa và viêm do LPS gây ra thông qua kích hoạt con đường truyền tín hiệu polysacarit liên quan đến yếu tố 2 (Nrf2)/yếu tố hạt nhân (NF).
Là một thành phần của thuốc, GEB cũng được sử dụng để điều trị các loại bệnh ngoài da bao gồm bệnh lupus ban đỏ hệ thống, bệnh vẩy nến và viêm da thần kinh. Koumine ức chế đáng kể sự tăng sinh của các tế bào biểu mô trong mô hình chuột và thúc đẩy quá trình sừng hóa bình thường của lớp biểu bì để tạo thành một lớp hạt, cho thấy tác dụng chống bệnh vẩy nến của nó. Ngoài ra, koumine làm giảm đáng kể nồng độ IL-2 huyết thanh ở chuột theo cách phụ thuộc vào liều lượng và tham gia vào quá trình điều hòa miễn dịch tế bào.
Tác dụng trên tim mạch
Một nghiên cứu trước đây cho thấy tổng số alkaloid của GEB làm chậm nhịp tim và ức chế nhịp tim nhanh do adrenaline gây ra, có thể liên quan đến tác dụng ức chế hoặc ngăn chặn của chúng đối với các thụ thể. Ngoài ra, tổng số alkaloid của GEB làm suy yếu nhanh chóng khả năng co bóp của cơ tim và mạch máu tâm trương, điều này có liên quan chặt chẽ đến tác dụng kích thích của chúng đối với các dây thần kinh cholinergic trong hệ thống tim mạch và các thụ thể muscarinic trong hệ thống thần kinh ngoại vi.
Tác dụng bảo vệ quá trình tạo máu
Đối với việc bảo vệ quá trình tạo máu, các alkaloid toàn phần của GEB không chỉ thúc đẩy quá trình sản xuất hồng cầu mà còn làm giảm bớt tình trạng giảm bạch cầu do hóa trị liệu cyclophosphamide ở một mức độ nhất định. Ngoài ra, chúng đảo ngược quá trình giảm tế bào máu ngoại vi, hồng cầu, tiểu cầu, tổng số tế bào có nhân trong tủy xương do hóa trị liệu gây ra và phát huy tác dụng bảo vệ chức năng tạo máu.
Tác dụng gây giãn đồng tử
Liên quan đến giãn đồng tử, alkaloid tổng của GEB có tác dụng giống như kháng cholinesterase và tạo ra tác dụng giống như thụ thể acetylcholine muscarinic bằng cách kích thích các dây thần kinh tự trị ngoại vi. Vương và cộng sự vào năm 1990 đã tuyển dụng 69 tình nguyện viên và sử dụng thuốc nhỏ mắt GEB – alkaloids để làm giãn đồng tử và điều chỉnh các hiệu ứng liệt trên mắt. Vào lúc 6 giờ sau khi điều trị, các chỉ số khác nhau của các tình nguyện viên đã trở lại bình thường và thời gian phục hồi của những người tham gia nhanh hơn so với những người dùng homatropine và tropicamide, cho thấy rằng tổng số alkaloid của GEB có thể được sử dụng để phát triển một loại thuốc mới cho giãn đồng tử.
Người lược dịch: Bác sỹ Hoàng Sầm.