Xem xét thành phần hóa học mảng bám động mạch vành người
Cơ sở — Thành phần tổn thương, chứ không phải kích thước hoặc khối lượng, xác định liệu mảng xơ vữa động mạch sẽ tiến triển, thoái triển hay vỡ ra, nhưng các kỹ thuật hiện tại không thể cung cấp thông tin định lượng chính xác về thành phần tổn thương. Chúng tôi đã phát triển một kỹ thuật để đánh giá tình trạng bệnh lý của các mẫu động mạch vành người bằng cách định lượng thành phần hóa học của chúng với quang phổ Raman cận hồng ngoại.
Phương pháp và Kết quả – Các mẫu động mạch vành (n = 165) thu được từ tim người nhận đã được chọc dò được chiếu sáng bằng ánh sáng hồng ngoại 830 nm. Phổ Raman được thu thập từ mô và xử lý để định lượng trọng lượng tương đối của Cholesterol, Cholesterol este, chất béo trung tính và Phospholipid, và muối Canxi ở vị trí động mạch được kiểm tra. Các vị trí động mạch sau đó được phân loại bởi một nhà bệnh lý học và được nhóm lại thành mô không xơ hóa, mảng bám không vôi hóa hoặc mảng bám vôi hóa. Mô không xơ hoá, bao gồm động mạch bình thường và xơ hóa nội mạc, chứa trung bình ≈4 ± 3% Cholesterol, trong khi các mảng không vôi hóa có ≈26 ± 10% và mảng vôi hóa ≈19 ± 10% Cholesterol ở các vùng không vôi hóa. Trọng lượng tương đối trung bình của muối Canxi là 1 ± 2% trong mảng không vôi hóa và 41 ± 21% trong mảng vôi hóa. Để làm cho thông tin hóa học định lượng này hữu ích về mặt lâm sàng, chúng tôi đã phát triển một thuật toán chẩn đoán, dựa trên bộ 97 mẫu đầu tiên, chứng minh mối tương quan chặt chẽ giữa trọng lượng tương đối của Cholesterol và muối Canxi với các chẩn đoán mô học ở cùng một vị trí. Thuật toán này sau đó đã được thử nghiệm tiền cứu trên bộ thứ hai gồm 68 mẫu. Thuật toán đã phân loại chính xác 64 trong số các mẫu mới này, do đó chứng minh độ chính xác và mạnh mẽ của phương pháp.
Kết luận – Tình trạng bệnh lý của một động mạch vành nhất định của con người có thể được đánh giá bằng cách định lượng thành phần hóa học của nó, điều này có thể được thực hiện nhanh chóng bằng kỹ thuật quang phổ Raman. Khi quang phổ Raman được thu được trên lâm sàng thông qua các sợi quang học, quang phổ Raman có thể hữu ích trong việc theo dõi sự tiến triển và thoái triển của xơ vữa động mạch, dự đoán vỡ mảng xơ vữa và lựa chọn can thiệp điều trị thích hợp.
Kết quả phân tích hóa học
Đối với mỗi vị trí thành động mạch của các mẫu trong tập đầu tiên, các thành phần hóa học được lập biểu đồ so với tám phạm trù mô học (Hình 4). Hình 4A cho thấy lượng Cholesterol tổng số trong mô không xơ hóa (loại 1 và 2) thấp hơn so với các mảng không vôi hóa (loại 3 và 4) và mảng vôi hóa (loại 5 đến 7). Các mảng không vôi hóa có Cholesterol tự do cao nhất (Hình 4B), và Hình 4C cho thấy Cholesterol ester tăng lên khi quá trình xơ vữa động mạch tiến triển. Hình 4D cho thấy trọng lượng tương đối của muối Calci trong các mảng vôi hóa được nâng lên. Trung bình, Mô động mạch phân chia (Hình 4E) không khác nhiều trong số tám phạm trù mô học. Triglyceride và Phospholipid (Hình 4F) giảm khi xơ vữa động mạch tiến triển bởi vì như các cơ quan và phương tiện truyền thông dày lên, lớp phiêu sinh ngày càng xa chất phát sáng bề mặt và do đó đóng góp ít hơn vào thể tích mô được kiểm tra quang phổ so với mô không cắt lớp. Hình 5 cho thấy sự đóng góp phổ của các Carotenoid, được biểu thị bằng các đơn vị tùy ý, được tăng lên trong mô xơ vữa và mảng xơ vữa (loại 3 và 4).
Giá trị trung bình SD của trọng lượng tương đối của mỗi hóa chất
Thành phần trong mô không xơ hóa (I), mảng bám không vôi hóa (II) và mảng bám vôi hóa (III) được liệt kê trong Bảng 1. Một thử nghiệm của Wilcoxon cho thấy sự khác biệt về Cholesterol tổng số giữa mô không xơ hóa và mảng bám không vôi hóa rất có ý nghĩa thống kê (P, .001) . Sự khác biệt về trọng lượng tương đối của muối calci giữa mảng bám vôi hóa và không vôi hóa cũng có ý nghĩa thống kê cao (P, 0,001)
Cholesterol
tổng số |
Cholesterol
tự do |
Cholesterol
ester |
Muối calci | Mô động mạch
phân chia |
Triglyceride
và phospholipid |
Β-carotene | |
Mô không xơ vữa | 3.8±2.5 | 3.0±2.5 | 0.8±1.3 | 1.2±1.4 | 75.2±22.6 | 21.0±21.8 | 13.4±18.6 |
Mô xơ vữa không vôi hoá | 25.8±9.5 | 16.7±8.2 | 9.1±4.8 | 1.1±1.6 | 66.3±13.5 | 7.8±4.5 | 152.6±61.1 |
Mô xơ vữa đã bị vôi hoá | 19.0±9.5 | 4.4±3.6 | 14.5±7.7 | 40.9±20.7 | 78.5±10.2 | 3.2±3.3 | 23.1±55.3 |
Nhận xét:
Với mô mảng bám thành mạch thành phần chính của mảng bám chủ yếu là mô động mạch phân chia, mỡ trung tính và Phospholipid, lượng can xi không đáng kể;
Với mô mảng bám thành mạch xơ vữa chưa vôi hóa thành phần chính là mô phân chia động mạch, Cholesterol tự do, Cholesterol ester, lượng can xi không đáng kể;
Với mô mảng bám thành mạch xơ vữa đã vôi hóa thành phần chính là mô phân chia động mạch và muối canxi rất đáng kể, không thể bỏ qua trong thiết kế điều trị.
Sưu tầm và biên dịch, nhận xét: Thạc sỹ dược sỹ Nguyễn Xuân Ninh.