Nghệ bọ cạp (Curcuma rangjued) – họ Gừng (Zingiberaceae) được trồng ở khu vực Tây Nguyên, Việt Nam, có nhiều đặc điểm khác với các loài nghệ đã biết như Nghệ vàng, Nghệ đen, Nghệ trắng, v.v.. Trong y học cổ truyền, Nghệ bọ cạp được dùng để chữa các bệnh về đường hô hấp như nhiễm trùng đường hô hấp, viêm phế quản, hen suyễn; đường tiêu hóa như đau dạ dày; bệnh về da.
Hoạt chất chính trong Nghệ bọ cạp là D-limonene, β-pinene, và caryophyllene, không phải curcumin. Đây là những hoạt chất có tác dụng chống viêm và chống oxi hóa tốt.
Thử nghiệm trên tế bào ung thư ung thư phổi (A549), ung thư ú (MCF-7), ung thư Đại trực tràng (HT-29) và ung thư dạ dày (SNU-1), dịch chiết từ thân rễ bằng dầu hỏa cho tác dụng ức chế tế bào ung thư tốt nhất – tuy nhiên dung môi này độc, chỉ có thể dùng trên quy mô công nghiệp. Để áp dụng phổ biến, có thể dùng dịch chiết cồn. Kết quả ức chế dịch chiết cồn cho thấy tế bào ung thư dạ dày nhạy cảm nhất, sau đó là ung thư đại trực tràng và vú, ít nhạy cảm là ung thư phổi, ở nồng độ dưới 100 µg/ml.
Do tiềm năng chống ung thư, Nghệ bọ cạp được bổ sung vào các công thức thuốc hỗ trợ và điều trị ung thư của Viện Y học Bản địa Việt Nam.
Khuyến nghị: Bệnh nhân ung thư có thể dùng dịch chiết từ cồn của củ Nghệ bọ cạp hàng ngày để ức chế sự phát triển của tế bào ung thư với liều 20-24 g/ngày.
Nhóm biên tập và đưa tin: Hoàng Sầm, Nguyễn Hương, Ma Thị Hoàn và Vũ Thị Thanh Hằng.