Dịch tễ học bệnh cận thị

1. Dịch tễ của bệnh

1.1.Trên thế giới:

Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới, Trung Quốc có khoảng 600 triệu người (gần bằng nửa dân số nước này) bị cận thị. Tỷ lệ người dân bị mắc cận thị đã tăng gấp đôi, thậm chí gấp ba ở hầu hết Đông Á trong vòng 40 năm qua. Singapore, Trung Quốc và Hàn Quốc là những nơi có tỷ lệ người mắc cận thị cao nhất. Theo Tiến sĩ y khoa Denize Atan, giảng viên cao cấp Khoa Mắt, Đại học Bristol (Anh), cận thị đã trở nên phổ biến và tăng nhanh trong vòng vài thập niên vừa qua trở thành một căn bệnh toàn cầu. Bà cho biết: “Khoảng 30 - 50% người trưởng thành ở Mỹ và châu Âu bị cận thị, còn những nước Đông và Nam Á có thu nhập cao, tỷ lệ cận thị đã tăng lên đến 80 - 90% ở những người tốt nghiệp phổ thông tuổi 18. Đây sẽ là thế hệ có nhiều người mắc bệnh cận nhất từ trước tới giờ”. Theo một nghiên cứu năm 2015 xuất bản trên tạp chí y khoa về mắt, vào năm 2050, khoảng một nửa dân số thế giới (tức 5 tỷ người) có khả năng sẽ mắc bệnh cận thị so với 1,4 tỷ người hiện nay. Chẳng hạn như ở Singapore hơn 82% người ở tuổi 20 bị cận. Khi ở tuổi 60, rất nhiều vấn đề về mắt của họ sẽ trở nên tồi tệ hơn. Họ có nguy cơ cao bị các rối loạn mắt nghiêm trọng như cận nặng, tăng nhãn áp, đục nhân mắt, bong võng mạc, thoái hóa điểm vàng, có thể dẫn tới mất thị lực và mù [5].

Nhiều nghiên cứu cắt ngang gần đây đã báo cáo một sự thay đổi đáng kể về tỷ lệ cận thị (Myopia, Nearsightedness) ở trẻ em có nguồn gốc dân tộc khác nhau, địa điểm khác nhau và độ tuổi khác nhau. Một nghiên cứu cắt ngang dựa trên dân số gần đây về trẻ em Mỹ mẫu giáo ở độ tuổi 6 tháng đã báo cáo tỷ lệ cận thị là 1,2% ở người da trắng không gốc Tây Ban Nha, 3,7% ở người gốc Tây Ban Nha, 3,98% ở người châu Á và 6,6% ở người Mỹ gốc Phi. Tỷ lệ cận thị cắt ngang của cận thị ở học sinh Úc được báo cáo là 42,7% và 59,1% ở trẻ em 12 tuổi và 17 tuổi ở dân tộc Đông Á, trong khi tỷ lệ lưu hành tương ứng ở người da trắng châu Âu trẻ em cùng tuổi lần lượt là 8, 3% và 17, 7%.

Sự khác biệt về tỷ lệ cận thị ở trẻ em ở các khu vực địa lý khác nhau cũng đã được báo cáo rộng rãi. Sự khác biệt đáng kể trong khu vực tồn tại từ quốc gia này sang quốc gia khác ngay cả trong cùng một khu vực địa lý. Tỷ lệ phổ biến ở các nước Đông Á và Đông Nam Á thường cao hơn các khu vực khác trên thế giới. Các cuộc điều tra về tỷ lệ hiện mắc gần đây ở Trung Quốc sử dụng phương pháp tự động điều trị chu kỳ cho thấy 16, 2% trẻ em trong độ tuổi đến trường ở các vùng nông thôn phía bắc Trung Quốc trong độ tuổi từ 5 đến 15 tuổi bị cận thị.  So sánh, tỷ lệ cận thị cao hơn nhiều đã được báo cáo từ các nghiên cứu gần đây về học sinh ở độ tuổi tương tự ở các thành phố lớn ở miền nam Trung Quốc: 38,1% ở Quảng Châu và 36,7% ở Hồng Kông. Cận thị dường như phổ biến hơn ở những học sinh nhỏ tuổi ở Singapore so với miền nam Trung Quốc. Tỷ lệ cận thị ở trẻ em 7 tuổi 9 tuổi được báo cáo từ nghiên cứu Singapore -Trung Quốc 25 là 36,7% ở Singapore, 18,5% ở thành phố Hạ Môn phía nam Trung Quốc, so với 6,6% ở vùng nông thôn Hạ Môn. Ngược lại, tỷ lệ cận thị thấp hơn nhiều ở một số quốc gia khác ở Đông Á. Ở các học sinh Mông Cổ ở nông thôn 7 tuổi 17, tỷ lệ cận thị là 5,8%. Chỉ 1,2% trẻ em Nepal ở độ tuổi 15 được chứng minh là bị cận thị.

Có ít dữ liệu hơn chi tiết về tỷ lệ cận thị ở người lớn. Tỷ lệ lưu hành được tìm thấy thay đổi theo độ tuổi. Do sự khan hiếm tương đối của dữ liệu từ các nghiên cứu đoàn hệ quy mô lớn, một tuyên bố chính xác hơn có thể là tỷ lệ cận thị ở người cao tuổi thường thấp hơn so với người trẻ tuổi. Trong nghiên cứu về mắt đập Beaver, 28 dữ liệu được thu thập từ năm 1988 đến 1990 cho thấy sự giảm đáng kể theo tuổi ở những người trên 43 tuổi. Tỷ lệ cận thị giảm từ 42,9% ở người trưởng thành 43 tuổi xuống còn 25, 1% ở người lớn 55 tuổi, giảm xuống còn 14, 8% ở nhóm 65 đến 74 tuổi, sau đó giảm nhẹ xuống còn 14, 4% giữa các cá nhân từ 75 tuổi trở lên. Một nghiên cứu dựa trên dân số quy mô lớn khác ở người Mỹ thành thị từ 40 tuổi trở lên cũng cho thấy tỷ lệ cận thị giảm rõ rệt với tuổi tăng ở nữ giới thuộc các dân tộc khác nhau và người da trắng nam. Tuy nhiên, một mô hình lưỡng kim đã được quan sát thấy trong tỷ lệ cận thị ở những người Mỹ gốc Phi ở các độ tuổi khác nhau, với tỷ lệ lưu hành cao nhất được tìm thấy ở những người từ 40 tuổi 49 cũng như 80 tuổi trở lên. Một mô hình lưỡng tính tương tự về tỷ lệ cận thị đã được tìm thấy ở những người Singapore trưởng thành ở độ tuổi 40. Trong số các tỷ lệ cận thị tương đối cao ở tất cả các nhóm tuổi ở cả nam và nữ, tỷ lệ này cũng cao nhất ở những người trong độ tuổi bốn mươi và bảy mươi. Vẫn còn đang tranh cãi liệu sự thay đổi liên quan đến tuổi này trong tỷ lệ cận thị của kết quả cận thị do tác động theo chiều dọc hay hiệu ứng đoàn hệ. Tuy nhiên, sự phân bố lưỡng kim có thể do ảnh hưởng khác nhau của cận thị trục ở những người trẻ tuổi và cận thị chỉ số lớn hơn, do xơ cứng hạt nhân ở người lớn tuổi

Tỷ lệ mắc và tiến triển

Dữ liệu liên quan đến tỷ lệ cận thị từ các nghiên cứu đoàn hệ dọc vẫn còn khan hiếm hơn. Theo một báo cáo gần đây của một nghiên cứu đoàn hệ dân số trên hai đoàn hệ học sinh Úc 12 tuổi và 17 tuổi, tỷ lệ cận thị hàng năm là 2, 2% ở đoàn hệ trẻ và 4, 1% ở đoàn hệ cũ. Tỷ lệ mắc cận thị hàng năm ở trẻ em Đông Á (6,9% ở nhóm trẻ, 7,3% ở người cao tuổi) cao hơn nhiều so với trẻ em da trắng châu Âu (trẻ hơn, 1,3%; già hơn, 2,9%). Sự gia tăng đáng kể về tỷ lệ lưu hành theo thời gian đã được ghi nhận ở trẻ em ở cả hai nhóm tuổi: từ 1, 4 Hóa 14, 4% ở nhóm trẻ (trong khoảng thời gian theo dõi là 6,1 ± 0,8 năm) và từ 13, 0% 29, 6% ở nhóm người lớn tuổi (hơn thời gian theo dõi 4,5 ± 0,3 năm).

Theo đánh giá của năm cuộc điều tra về tỷ lệ lưu hành toàn quốc được thực hiện tại Đài Loan trong khoảng thời gian từ 1983 đến 2000, tỷ lệ cận thị tăng đều đặn và tăng đáng kể ở trẻ em từ 7-18 tuổi. Mức độ gia tăng tỷ lệ mắc bệnh trong 17 năm dao động trong khoảng từ 14% (đối với trẻ em từ 16 đến 18 tuổi) và 26,2% (đối với trẻ em 7 tuổi). Một xu hướng tương tự đã được báo cáo trong một đánh giá khác về sự thay đổi tỷ lệ cận thị trong hơn 30 năm ở Hoa Kỳ từ năm 1971 đến 2004. Trong tất cả các nhóm tuổi trong đó tỷ lệ cận thị được chứng minh là tăng đáng kể trong ba thập kỷ, tỷ lệ cận thị ở học sinh từ 12 tuổi17 tuổi tăng từ 12, 0% (từ năm 1971 đến năm 1972) lên 31, 2% (từ năm 1999 đến 2004). Một nghiên cứu cắt ngang so sánh tỷ lệ cận thị của hai thế hệ người Ấn Độ gốc Singapore trên 40 tuổi cho thấy tỷ lệ cận thị và cận thị cao ở những người nhập cư thế hệ thứ nhất thấp hơn đáng kể so với người nhập cư thế hệ thứ hai (cận thị: 23, 4% so với 30,2%, cận thị cao: 2,5% so với 4,8%).

Tuy nhiên, xu hướng về tỷ lệ cận thị cao hơn bởi các nghiên cứu trước đây đã không được nhân rộng trong một nghiên cứu tại Hồng Kông. Một phân tích về những thay đổi trong hai thập kỷ về tỷ lệ cận thị ở học sinh Trung Quốc cho thấy tỷ lệ lưu hành tương tự vào đầu những năm 1990 và từ 2005 đến 2010. Ở Phần Lan, một nghiên cứu trong thế kỷ 20 cho thấy tỷ lệ cận thị liên tục (tương đối) ở trẻ em 7 tuổi 8 tuổi trong hơn 20 năm gần đây, trong khi đó tỷ lệ lưu hành gần như tăng gấp đôi ở trẻ em 14 tuổi15 tuổi. Trái ngược với xu hướng gia tăng tỷ lệ cận thị được báo cáo rộng rãi trong những thập kỷ gần đây, một nghiên cứu hồi cứu so sánh tỷ lệ cận thị của các bản ghi Đan Mạch trong các năm 1882, 1964 và 2004 cho thấy tỷ lệ cận thị giảm đáng kể theo thời gian, mặc dù có thể so sánh được đã được đặt câu hỏi vì sự khác biệt trong phương pháp nghiên cứu trong những năm khác nhau.

Cận thị – 0.50D chiếm tỉ lệ thấp <5% ở nhóm trẻ 5 tuổi. Tỉ lệ cận thị gia tăng ở lứa tuổi bắt đầu đi học và nhóm vị thành niên. Ở Mỹ và một số nước phát triển tỉ lệ cận thị ở lứa tuổi thiêu niên là 20 – 25% và lứa tuổi thanh niên là 25-35%. Theo một số báo cáo tỉ lệ cận thị ở một số vùng thuộc châu Á tỉ lệ này cao hơn. Tỉ lệ cận thị giảm dần ở lứa tuổi trên 45 và giảm còn 20% ở lứa tuổi 65 và xuống tới 14% ở lứa tuổi 70. Một số nghiên cứu cho thấy tỉ lệ cận thị ở nữ giới cao hơn nam giới một chút. Tỉ lệ cận thị cũng cao hơn ở nhóm người có thu nhập cao và có trình độ học vấn, và cận thị cũng cao hơn ở nhóm những người có công việc đòi hỏi làm việc ở thị giác gần với cường độ cao [4].

Các nhà khoa học của Đại học Quốc gia Australia đã khảo sát tỷ lệ học sinh mắc tật cận thị tại nhiều đô thị lớn ở châu Á, đưa tin. Họ nhận thấy tỷ lệ này tăng vọt trong hai thế hệ qua. Chẳng hạn, tỷ lệ người bị cận thị tại khu vực Đông Nam Á trước kia vào khoảng 20% dân số, nhưng ngày nay con số đó đã vọt lên hơn 80%. Thậm chí tỷ lệ người bị cận có thể lên tới 90% ở tầng lớp thanh niên và thiếu niên tại nhiều nước châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc.

"Cận thị đã trở thành một vấn đề y tế lớn tại châu Á", giáo sư Ian Morgan, trưởng nhóm nghiên cứu, phát biểu trong bài viết trên tạp chí y khoa Lancet [7].

Theo Tổ chức Y tế Thế giới, có khoảng trên 800 triệu người bị cận thị. Lứa tuổi học sinh (từ 7-16 tuổi) rất dễ mắc chứng cận thị, độ cận thị tiến triển càng nhanh do mức độ làm việc nhìn gần bằng mắt càng nhiều. Một số nghiên cứu thống kê cho thấy thậm chí tỷ lệ cận thị tới 85-90% ở thanh niên tại những nước như: Singapore, Đài Loan, Hồng Kông [8].

1.2. Dịch tễ học của bệnh ở Việt Nam

Ở Việt Nam, theo các báo cáo của Bệnh viện Mắt Trung ương, tỷ lệ tật cận thị tính trung bình trong cả nước chiếm khoảng 30%, ở các thành phố lớn, tỷ lệ cận thị cao hơn so với các vùng nông thôn [8]. Theo thống kê của Bộ Y tế, trong 36 triệu người mắc bị cận thị trên cả nước, có khoảng 3 triệu ca là trẻ em trong độ tuổi 6 - 15; tỷ lệ cận thị ở các thành phố lớn lên đến hơn 40% và tại vùng ven và vùng nông thôn khoảng 10% - 15% [6].

Tật khúc xạ là một vấn đề thời sự được cả xã hội quan tâm,đặc biệt là cận thị học đường đã được chú ý từ những năm 1960, nhưng đến nay  tỷ lệ này vẫn khá cao và có xu hướng tăng nhanh. Theo Kế hoạch quốc gia về Phòng chống mù loà và chăm sóc mắt ở Việt Nam giai đoạn 2010 – 2013, tật khúc xạ đang ngày càng phổ biến, với tỷ lệ mắc khoảng 10-15% ở học sinh nông thôn, 20-35% ở thành phố. Nếu chỉ tính riêng nhóm trẻ từ 6 đến 15 tuổi (lứa tuổi cần ưu tiên được chỉnh kính) cả nước có khoảng 14.207.000 em, với tỷ lệ mắc tật khúc xạ ước tính là 15-20%, thì có tới 2.131.000- 2.841.400 em bị tật khúc xạ cần đeo kính.  Đó thực sự là một số lượng khổng lồ, một thách thức lớn đối với ngành y tế và toàn xã hội.

Từ năm 1991 đến nay:

* Ở Hà Nội: tỷ lệ cận thị ở học sinh tiểu học là 1,57%, ở học sinh trung học cơ sở  là 4,57% và ở học sinh trung học phổ thông là 10,34%.

* Ở Thành phố Hồ Chí Minh: Tật khúc xạ là 30,5% (cận thị là 20% và loạn thị là 8%).

* Ở các khu vực khác:

- Hải Phòng: Tỷ lệ cận thị là 23,4%;

- Bắc Ninh:  Học sinh lớp 6 đến lớp 8 thấy tỷ lệ cận thị là 20,3%.

- Thái Nguyên: Tỷ lệ cận thị nói chung là 7,16.

- Bắc Kạn: Tật khúc xạ chiếm 82,86% , chủ yếu là cận thị.

- Huế: Tỷ lệ cận thị học đường ở nam giới là 17,09% và ở nữ là 23,30%.

 - Đà Nẵng: Tỷ lệ giảm thị lực là 21,6%, trong đó do tật khúc xạ chiếm 99,6% và 0,4% do đục thể thuỷ tinh [1].

Theo thống kê của Bệnh viện Mắt Trung ương năm 2017, cả nước ta có gần 5 triệu trẻ em trong độ tuổi đi học mắc tật khúc xạ, trong đó số trẻ bị cận thị chiếm tới hơn 40% và tập trung chủ yếu ở thành thị.

2.Yếu tố nguy cơ

2.1.Cận thị của cha mẹ

Cận thị dường như thường thấy hơn ở trẻ em có cha mẹ bị cận thị. Mutti và các đồng nghiệp đã báo cáo rằng tỷ lệ cận thị là 6,3% ở trẻ em ở độ tuổi 13,7 ± 0,5 có cả cha và mẹ là đối xứng, 18,2% ở trẻ em có một cha mẹ bị cận thị và 32, 9% ở trẻ em có cả cha và mẹ đều bị cận thị. Trong nghiên cứu này, sự tương tác giữa công việc gần và cận thị của cha mẹ đã được đánh giá để kiểm tra giả thuyết về tính nhạy cảm di truyền. Không có bằng chứng được tìm thấy để hỗ trợ cho giả thuyết rằng trẻ em có cha mẹ bị cận thị có thể thừa hưởng sự nhạy cảm với môi trường. Mối liên quan tương tự giữa cận thị của phụ huynh và tỷ lệ cận thị đã được tìm thấy sau khi điều chỉnh các yếu tố môi trường và nhân khẩu học trong một quần thể học sinh 12 tuổi khác ở Úc. Trẻ em có hai cha mẹ bị cận thị cũng được phát hiện có hầu hết các khúc xạ hình cầu tương đương âm tính và chiều dài trục dài nhất. Tỷ lệ cận thị cao hơn đáng kể được tìm thấy ở trẻ em Đông Á so với những người da trắng châu Âu trong cùng dân số, trong khi đó, khối lượng công việc gần tăng không liên quan đáng kể đến tỷ lệ cận thị khi các yếu tố bao gồm cận thị của cha mẹ, nhân khẩu học và các hoạt động ngoài trời được điều chỉnh cho. Một nghiên cứu khác ở Hồng Kông cũng cho thấy trẻ em Trung Quốc cận thị ở độ tuổi 16 có tiền sử cận thị mạnh hơn của cha mẹ cũng có khúc xạ hình cầu tương đương nhiều hơn và có xu hướng ít bị cận thị hơn trước khi bắt đầu cận thị. Khác với những phát hiện ở trẻ em Úc, tiền sử cận thị mạnh hơn của cha mẹ không liên quan đến chiều dài trục dài hơn nhưng có liên quan đáng kể đến sự tăng trưởng mắt nhanh hơn và sự thay đổi cận thị trong khúc xạ theo thời gian. Một nghiên cứu gần đây tại Quảng Châu, Trung Quốc cho thấy tác động nhỏ nhưng nhỏ của cận thị của cha mẹ đối với tỷ lệ cận thị ở trẻ em 15 tuổi. So với những đứa trẻ không có cha mẹ bị cận thị, những đứa trẻ có một cha mẹ bị cận thị có khả năng bị cận thị cao gấp đôi và những đứa trẻ có hai cha mẹ bị cận thị có khả năng bị cận thị cao gấp ba lần. Mặc dù cận thị nghiêm trọng hơn của cha mẹ dẫn đến tăng nguy cơ cận thị ở trẻ em, nhưng tác động của cận thị của cha mẹ đối với cận thị cao ở trẻ em vẫn chưa được xác định.

2.2.Các yếu tố về kinh tế xã hội

Các nghiên cứu về tỷ lệ mắc bệnh dựa trên dân số cho thấy tỷ lệ cận thị gia tăng ở người Singapore với trình độ học vấn cao hơn, nhà ở tốt hơn, thu nhập hàng tháng của cá nhân cao hơn. Tỷ lệ mắc cận thị cao hơn cũng được tìm thấy ở trẻ em Hàn Quốc từ các gia đình có thu nhập cao hơn. Trẻ em bị cận thị cũng được phát hiện có tiền sử cận thị mạnh hơn của cha mẹ trong các gia đình có trình độ học vấn cao hơn của cha mẹ, thu nhập cao hơn và nghề nghiệp cổ trắng hoặc nghề nghiệp.

2.3.Hoạt động gần và ngoài trời

Các hoạt động gần như làm việc, chẳng hạn như đọc, viết, sử dụng máy tính và chơi trò chơi điện tử, đã được đề xuất có thể chịu trách nhiệm cho sự gia tăng đáng kể về tỷ lệ cận thị cũng như tăng tỷ lệ mắc cận thị.  Tuy nhiên, cũng đã có một số nghiên cứu báo cáo về mối liên quan yếu hoặc vắng mặt giữa tải nặng hơn của công việc gần và tỷ lệ mắc hoặc cận thị, đặc biệt là cận thị sớm. Một nghiên cứu đoàn hệ ở các học sinh Úc cho thấy những người bị cận thị thực hiện gần công việc hơn đáng kể. Đo chiều dài trục sau khi làm việc gần kéo dài bằng IOLMaster cho thấy mức độ tăng chiều dài trục lớn hơn đáng kể trong mắt với cận thị khởi phát sớm hoặc cận thị tiến triển.

Hoạt động ngoài trời, như là một biện pháp phòng ngừa tiềm năng hoặc một yếu tố rủi ro có thể, đã gây ra sự quan tâm đáng kể. Mặc dù vẫn chưa rõ liệu hoạt động ngoài trời có thể giúp ngăn ngừa sự khởi phát và tiến triển của cận thị hay không. Một số nghiên cứu dịch tễ học gần đây cho thấy rằng thời gian ở ngoài trời nhiều hơn có thể liên quan đến việc giảm tỷ lệ cận thị. Cơ chế cơ bản của hiệp hội này vẫn chưa được hiểu rõ. Lý thuyết 'ánh sáng-dopamine' đã được đề xuất như một cơ chế có thể. Cường độ ánh sáng tăng lên trong thời gian ở ngoài trời có thể kích thích giải phóng dopamine, được đề xuất là có thể làm giảm độ giãn dài trục của mắt. Một nghiên cứu gần đây khác về trẻ em nông thôn Trung Quốc khoảng 15 tuổi cho thấy không có mối liên hệ nào giữa thời gian ở ngoài trời hoặc các hoạt động gần sau khi điều chỉnh độ tuổi, giới tính và giáo dục của cha mẹ.

2.4.Va chạm

Cận thị, là 'tình trạng mắt phổ biến nhất', đã được chứng minh là có tác động y tế, xã hội và tài chính đa dạng. Cận thị cao hoặc mắc phải cận thị cao có thể đi kèm hoặc dẫn đến các bệnh lý về mắt nghiêm trọng. Cận thị không điều trị đã được chứng minh là nguyên nhân chính gây suy giảm thị lực cũng như sự thỏa hiệp về chất lượng cuộc sống. Các tác động bất lợi từ cận thị cũng có thể được phản ánh về mặt kinh tế xã hội khi xem xét việc giảm năng suất do suy giảm thị lực gây ra bởi cận thị, chi phí điều trị cho bệnh đi kèm của cận thị và chi phí điều trị khác nhau.

Theo một báo cáo gần đây nhất được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) công bố chủ yếu dựa trên dữ liệu dân số thu được năm 2007, sử dụng định nghĩa về suy giảm thị lực là thị lực kém hơn 6/18 trong mắt tốt hơn, ước tính 158 triệu trường hợp suy giảm thị lực do lỗi khúc xạ không được điều trị trong năm 2007. Trong số 14 tiểu vùng trên thế giới có trong báo cáo của WHO, con số này cao nhất ở khu vực Tây Thái Bình Dương (61, 9 triệu), tiếp theo là khu vực Đông Nam Á (54, 5 triệu ). Khoản lỗ ước tính trong tổng sản phẩm quốc nội toàn cầu do suy giảm thị lực do lỗi khúc xạ không được điều trị là 202 tỷ USD hàng năm, tăng mạnh trong hai thập kỷ so với số liệu thống kê trước đây. Một cuộc điều tra cắt ngang khu vực khác cho thấy gánh nặng tài chính đáng kể đối với các cá nhân cận thị ở Singapore.

Nó cũng đã được ghi nhận rằng myopes, đặc biệt là myopes cao, có xu hướng bị ảnh hưởng bởi chất lượng cuộc sống do ảnh hưởng khác nhau từ các yếu tố chức năng, tâm lý, mỹ phẩm và tài chính. Những người bị cận thị cao được báo cáo là có chất lượng cuộc sống liên quan đến thị lực thấp hơn đáng kể so với những người không bị cận thị, nhẹ hoặc trung bình. Chất lượng cuộc sống liên quan đến thị lực ở những người bị cận thị cao thậm chí có thể giảm xuống gần với bệnh nhân bị bệnh lý giác mạc nghiêm trọng.

Cận thị, đặc biệt là cận thị cao (thường được xác định là SE≤ − 6.0 D), có liên quan đến nhiều bệnh đi kèm ở mắt. Bệnh lý Vitreoretinal, đặc biệt là thay đổi bệnh lý ngoại biên ở võng mạc, là những điều kiện được công nhận liên quan đến cận thị cao. Trong một nghiên cứu cắt ngang, có tới 61,7% mắt cận thị cao được phát hiện có thay đổi võng mạc ngoại biên. Các bệnh lý phổ biến nhất bao gồm lưỡi liềm thần kinh thị giác (52, 5%), trắng không áp lực (51, 7%), thoái hóa mạng (5, 8%), thoái hóa microcystoid (5%) và thoái hóa sắc tố (4.2%). Cận thị cao cũng được đề nghị có liên quan đến bong võng mạc hai bên, một tình trạng bệnh lý thị giác rất nghiêm trọng.  Mắt cận thị cao với chiều dài trục tăng được tìm thấy dễ bị đục thủy tinh thể hạt nhân hơn. So với điều khiển thông thường, các loại cao cũng có xu hướng đục thủy tinh thể có mật độ hạt nhân cao hơn.  Điều này phù hợp với những phát hiện từ một nghiên cứu dựa trên dân số ở Singapore, cho thấy cận thị có liên quan đáng kể với cả đục thủy tinh thể dưới vỏ hạt nhân và sau. Cận thị cao đã được báo cáo là có liên quan đến bệnh lý thần kinh tiểu khung khu trú vô căn. Tóm lại, cận thị là một trong những rối loạn phổ biến nhất của mắt. Sự phổ biến của nó đang gia tăng đáng báo động ở các nền kinh tế đang phát triển nhanh chóng ở Đông Á, như Trung Quốc. Các yếu tố rủi ro môi trường khác nhau liên quan đến tình trạng kinh tế xã hội và lối sống đã được xác định và xuất hiện mạnh mẽ liên quan đến những thay đổi này. Bằng chứng cũng đã được tạo ra trong thập kỷ qua liên quan đến các cơ chế sinh học phân tử xác định tật khúc xạ, làm tăng thêm lý thuyết cho rằng cận thị là kết quả của sự tương tác phức tạp giữa khuynh hướng di truyền và phơi nhiễm môi trường. Các biện pháp để kiểm soát dịch bệnh này là rất cần thiết [2]

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), chỉ cần tiếp xúc với màn hình của các thiết bị điện tử trên 3 giờ mỗi ngày, mắt sẽ có nguy cơ bị suy giảm thị lực 90%. Trong khi đó, theo thống kê tại Việt Nam, trung bình mỗi người hiện sử dụng màn hình các thiết bị điện tử một ngày gần 10 giờ (dùng máy tính bảng 5 giờ 10 phút, điện thoại 2 giờ 40 phút, xem tivi 2 giờ). Việc xem các thiết bị điện tử vượt gấp nhiều lần chuẩn cho phép được cho là nguyên nhân khiến tỉ lệ bị bệnh về tật khúc xạ học đường tăng cao tại Việt Nam. Ngoài ra do yếu tố di truyền, thông thường bố mẹ bị cận thị từ 6 diop trở lên thì mức độ di truyền là 100% [3].

Tài liệu tham khảo cho dịch bài

1. Xem tài liệu.com (2015) Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học tật khúc xạ và đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp ở học sinh 6 15 tuổi tại thành phố Hà Nội, Luận án Tiến sĩ Y học. Cập nhật ngày 02-11-2020 tại: https://xemtailieu.com/tai-lieu/nghien-cuu-dac-diem-dich-te-hoc-tat-khuc-xa-va-danh-gia-hieu-qua-mot-so-bien-phap-can-thiep-o-hoc-sinh-6-15-tuoi-tai-thanh-pho-ha-noi-1132887.html

2. Dịch Tễ Học Cận Thị () cập nhật 02-11-2020 tại: https://vie.kyhistotechs.com/epidemiology-myopia-44690252

3. Việt Linh (2019) Cận thị học đường: Thực trạng đáng báo động, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, cập nhật 02-11-2020 tại: https://dangcongsan.vn/khoa-giao/can-thi-hoc-duong-thuc-trang-dang-bao-dong-534792.html

4.Bệnh viện Quân Y 108 (2015) Thị lực, cập nhật 02-11-2020 từ: http://www.hospital103.vn/vietnamese/bai-giang-chuyen-nganh/mat/thi-luc/1341/

5.Nhân dân (2018) Cận thị, mối lo toàn cầu, cập nhật 02-11-2020 tại: https://nhandan.com.vn/quoc-te-hangthang/can-thi-moi-lo-toan-cau-339118/

6. Thành An (2019) Báo động cận thị lứa tuổi học đường, cập nhật 02-11-2020 tại: https://www.sggp.org.vn/bao-dong-can-thi-lua-tuoi-hoc-duong-615724.html

7. Medlatec (2012) Đại dịch cận thị lan khắp châu Á, cập nhật 02-11-2020 tại: https://medlatec.vn/tin-tuc/dai-dich-can-thi-lan-khap-chau-a-s28-n1786

8. K.Mai (2019) Cận thị ngày càng gia tăng, làm sao để tránh? Báo Sức khỏe và Đời sống online, Cập nhật 02-11-2020 tại: https://suckhoedoisong.vn/can-thi-ngay-cang-gia-tang-lam-sao-de-tranh-n148099.html  

Doctor SAMAN
Vũ Khắc Lương
Phó giáo sư, Tiến sĩ Y học, Giảng viên cao cấp Trường Đại học Y Hà Nội

[]