Cây thuốc Nghiên cứu

Mạ mân – cây thuốc trị bệnh gan

Mạ mân – cây thuốc trị bệnh gan Theo từ điển cây thuốc Việt Nam tập 1 của Võ Văn Chi, Mạ mân là cây thuộc họ Đậu – Fabacea, còn có tên gọi khác là Thai moa, Lốt lài, Cóc kèn Balansa. Tên khoa học là Aganope balansae (Gagnep.) Phan Ke Loc. Cây gỗ nhỏ, […]

Mạ mân – cây thuốc trị bệnh gan

Theo từ điển cây thuốc Việt Nam tập 1 của Võ Văn Chi, Mạ mân là cây thuộc họ Đậu – Fabacea, còn có tên gọi khác là Thai moa, Lốt lài, Cóc kèn Balansa. Tên khoa học là Aganope balansae (Gagnep.) Phan Ke Loc.

Cây gỗ nhỏ, cao tới 8m, thân to 15cm, nhánh non không lông. Lá to, lá chét xoan rộng, dài đến 16cm, rộng 8cm, không lông, gân bên 5-6 đôi, cuống phụ đến 1cm. Chùy hoa ở nách lá. Quả dẹp dài đến 10cm, rộng 4cm, có 2 cánh rộng đến 8mm, màu nâu đỏ, hạt 1-2. Cây phân bố chủ yếu ở vùng núi đông bắc Việt Nam. Theo kinh nghiệm lưu truyền của người bản địa Mạ mân được dùng để điều trị các bệnh về gan. Trong từ điển có ghi tác dụng bảo vệ gan, chống viêm, lợi mật. Bộ phận dùng là thân gỗ và rễ cây.

Thực tế có nhiều lương y từ lâu đã dùng cây Mạ mân điều trị đối với viêm gan, vàng da, cổ trướng nhưng vì chưa có các nghiên cứu chứng minh nên chưa được công bố rộng rãi. Theo thông tin của Viện Dược liệu, Bộ Y tế, năm 1987 nhóm nghiên cứu của Viện Dược liệu DS. Phạm Duy Mai và CS – Phòng Dược lý Sinh hoá đã kết hợp với trạm nghiên cứu Dược liệu tỉnh Lạng Sơn nghiên cứu một số tác dụng chống viêm gan trên invitro cho kết quả tốt, đặc biệt đã thử độc tính của dịch chiết nước thân và rễ cây, kết luận dược liệu không có độc tính. Năm 2006 dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS Nguyễn Duy Thuần nghiên cứu sinh Trần Quốc Toản đã thực hiện và bảo vệ thành công Luận án Tiến sĩ (năm 2012) với đề tài “Nghiên cứu thành phần hoá học và một số tác dụng dược lý của cây Mạ mân (Aganope balansae (Gagnep.) Phan Ke Loc, Fabaceae)”

Kết quả nghiên cứu đã xác định được trong rễ và thân cây đều có 7 nhóm chất: Alcaloid, Acid hữu cơ, Flavonoid, Tanin, đường, tinh dầu và Polysaccharid. Trong lá cây có 4 nhóm chất: Acid hữu cơ, Tanin, tinh dầu và Polysaccharid. Đặc biệt trong thân và rễ cây có nhiều hợp chất quý đã được chiết xuất và phân lập thuộc nhóm Glycosphingolipid và dẫn chất của Chalcone. Nghiên cứu chứng minh thân rễ có tác dụng bảo vệ gan, chống viêm và lợi mật rất tốt trên thực nghiệm.

Nghiên cứu tác dụng dược lý trên gan của cây Mạ mân:

  • Tác dụng bảo vệ gan: Saponin toàn phần liều 33mg/kg và 66mg/kg, cao nước liều 165mg/kg và 330mg/kg đều có tác dụng bảo vệ gan trên mô hình gây viêm gan bằng paracetamol liều cao ở chuột nhắt trắng.
  • Tác dụng chống viêm: Saponin toàn phần liều 20mg/kg và 40 mg/kg, cao nước liều 100mg/kg và 200mg/kg đều có tác dụng chống viêm cấp và tác dụng chống viêm mạn trên chuột cống trắng.
  • Tác dụng lợi mật: Saponin toàn phần liều 33mg/kg và 66mg/kg, cao nước liều 165mg/kg và 330mg/kg đều có tác dụng lợi mật trên chuột nhắt trắng.

Các tác giả Trần Quốc Toản, Vũ Thị Ngọc Thanh, Hoàng Thái Hoa Cương, Nguyễn Duy Thuần đã công bố kết quả nghiên cứu tác dụng bảo vệ gan của rễ cây Mạ mân trên Tạp chí dược học số 396-tháng 4/2009.  Kết quả cao nước cả hai liều 330mg/kg và 165mg/kg, cắn n – butanol cả hai liều 66mg/kg và 33mg/kg chiết xuất từ rễ cây Mạ mân đều có tác dụng bảo vệ gan trên mô hình gây tổn thương gan cấp bằng paracetamol trên chuột nhắt trắng. Cao nước liều 165mg/kg và cắn n – butanol liều 33mg/kg thể hiện tác dụng bảo vệ gan tốt nhất, tác dụng tương đương nhau và làm giảm ALT mạnh hơn silymarin 67mg/kg.

Kết quả nghiên cứu đã cho thấy cả hai dạng bào chế chiết xuất từ rễ Mạ mân- saponin toàn phần và cao nước với 2 liều khác nhau đều có tác dụng chống viêm cấp, chống viêm mạn và tác dụng lợi mật.

Các nghiên cứu này chứng minh kinh nghiệm sử dụng cây Mạ mân của đồng bào dân tộc làm thuốc chống viêm gan, chữa các bệnh về gan là có cơ sở khoa học.

NCV Nguyễn Thu Trang (Biên tập)

Tác giả

Giới thiệu về tác giả

Dược sỹ Nguyễn Thu Trang

Bình luận

Bấm vào đây để viết bình luận