QUY CHẾ DÂN CHỦ VÀ TẬP TRUNG TRONG

TỔ HỢP Y HỌC BẢN ĐỊA VIỆT NAM

(giá trị lõi của văn bản dựa trên bài phát biểu của Hồ Chí Minh, 1951)

I. QUAN ĐIỂM VỀ DÂN CHỦ VÀ TẬP TRUNG TRONG TỔ HỢP

Tập thể lãnh đạo là dân chủ: một người dù tài giỏi đến mấy cũng không thể nào thấy hết mọi mặt của một vấn đề, càng không thể thấy hết được mọi việc, hiểu hết được mọi chuyện. Vì vậy, để lãnh đạo được sát, đúng cần phải có sự tham gia ý kiến của nhiều người. Nhiều người thì nhiều kiến thức, người thấy mặt này, người thấy mặt kia, do đó hiểu được toàn diện, mọi vấn đề. Lãnh đạo mà không tập thể thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc.

Cá nhân phụ trách là tập trung: Khi tập thể đã bàn bạc kĩ lưỡng, kế hoạch đã được định rõ thì giao cho một người phụ trách chính. Làm như vậy thì kế hoạch mới được thực hiện đầy đủ, tránh dựa dẫm, chồng chéo nhau, công việc mới đạt kết quả cao. Khi đánh giá công việc mới có cơ sở để biểu dương những người làm giỏi, phê bình những người làm kém, mới xác định rõ trách nhiệm của từng cá nhân. Phụ trách không có cá nhân thì sẽ đi đến tệ bừa bãi, lộn xộn, vô tổ chức. Kết quả cũng là hỏng việc.

Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách tức là dân chủ tập trung:

Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau.

II. NHẬN THỨC DÂN CHỦ TRONG TỔ HỢP

Vấn đề dân chủ không tách rời với tự do của từng cá nhân, tự do của từng bộ phận, từng nhóm việc, từng nhóm người, do vậy dẫn tới sự sáng tạo; dân chủ luôn song hành với công bằng và bình đẳng; dân chủ cũng không thể tách rời tính độc lập. Trên từng cá nhân, dân chủ thể hiện thành quyền của từng con người, quyền tự do mưu toan cho chính mình. Tự do dân chủ của mỗi người không xâm phạm tự do dân chủ của người khác và của tổ hợp. Tự do dân chủ không có nghĩa là” các đũa dài như nhau, cá đối bằng đầu” mà vẫn phải có trên dưới, trong ngoài.

Dân chủ đem lại lợi ích, quyền lực gắn với nội quy, quy chế, quy định, các định chế, cho biết giá trị của từng người như phẩm giá, nhân cách, tự trọng và tự chủ của từng người sử dụng lao động (NSDLĐ) và từng người lao động khoa học hoặc lao động kỹ thuật (NLĐ).

Dân chủ cần toàn diện trong công bằng về kinh tế, lợi ích vật chất, tinh thần cho NLĐ, NSDLĐ để từ đó họ dám nói, dám nghĩ, dám chịu trách nhiệm cá nhân, dám tự do tư tưởng, sáng tạo trong công việc, trong văn hóa, thụ hưởng văn hóa mà mình cho là phù hợp. Thông thường người lãnh đạo, trước khi trở thành lãnh đạo đã sai nhiều, rút kinh nghiệm nhiều, thế nhưng thế hệ sau mà sai chút ít thì chê trách nặng nề, luôn cầu toàn mong muốn người đi sau không sai sót gì, đó là không dân chủ.

Vấn đề dân chủ cần đặc biệt, cần thể hiện ở nhóm NSDLĐ để tránh được quan liêu, hách dịch, kẻ cả, thói quen mệnh lệnh, lệch lạc, thiên lệch trong cách xem xét đánh giá con người, sự vật, sự việc... cho rằng mình có quyền thế, áp đặt, sắp xếp, điều khiển người khác, xa rời thực tế, xa rời quần chúng; dân chủ giúp cho người lãnh đạo, quản lý, điều hành tránh được tự ái cá nhân khi người dưới quyền nói những câu trái ý, khó nghe, thậm chí dẫn tới ghét bỏ, trừng phạt, buộc thôi việc vô căn cứ, cực đoan, lấy việc công trả thù tư; dân chủ giúp lãnh đạo tránh được những người xiểm nịnh, nghe được lời nói trung thực, sát với thực tế tình hình.

Dân chủ rộng rãi thực chất là động lực của tiến bộ và phát triển, đoàn kết, gắn bó bền vững với doanh nghiệp.

Dân chủ tự thân là một phương pháp lãnh đạo và quản lý, điều hành hiệu quả, nó quan trọng và cần thiết như sự gương mẫu, có giá trị thuyết phục và hòa đồng nhưng không hòa tan, cổ vũ NLĐ noi theo. Dân chủ thực chất luôn gắn với sự chân thành, minh bạch, công khai, ràng buộc, cân bằng giữa quyền và nghĩa vụ.

Dân chủ ở NSDLĐ là đạo đức người lãnh đạo, quản lý, điều hành trân trọng phẩm giá, nhân cách của NLĐ. Người lãnh đạo, quản lý, điều hành cần xác định khi đối mặt với NLĐ buộc phải ứng xử tôn trọng, trân trọng như 1 nhân cách đối diện với 1 nhân cách, 1 phẩm chất với 1 phẩm chất, 1 con người với 1 con người. Sự bền vững của doanh nghiệp mấu chốt ở điểm quan trọng này.

Dân chủ và thực hành dân chủ là giải pháp hữu hiệu phát hiện các sai sót trong công việc cũng như sự sai sót trong lãnh đạo, quản lý, điều hành. Từ đó dẫn tới ổn định để phát triển doanh nghiệp và phát triển để ổn định ở tầm cao hơn.

Dân chủ phải trở thành nề nếp, thành văn hóa dân chủ, cân bằng giữa dân chủ với luật pháp và đạo đức, lối sống, giữa người với người, với tự mình phải xem xét lại chính mình, kiểm điểm, tự soi chính mình.

Dân chủ có trước, tập trung có sau, dân chủ không nhất thiết phải tập trung nhưng tập trung nhất thiết phải trên nền tảng dân chủ.

III. VAI TRÒ, Ý NGHĨA VÀ TÁC DỤNG CỦA DÂN CHỦ.

Dân chủ là cơ sở nền tảng của sức mạnh tập thể, nhờ dân chủ nên sức mạnh được giải phóng, được thể hiện trên thực tế;

Dân chủ giải phóng ý thức, giải phóng tiềm năng của từng cá nhân hòa quyện với các cá nhân khác tạo nên sức mạnh tập thể trong hoạt động khoa học, kỹ thuật, công nghệ.

Dân chủ phát huy được mọi khả năng sáng tạo, làm lộ rõ những tài năng, sáng kiến, ý tưởng khoa học, kỹ thuật, công nghệ; từ đó tạo ra những nguồn lực cho tiến bộ và phát triển.

Dân chủ thúc đẩy động lực sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh, có nguồn thu dồi dào, từ đó NSDLĐ, NLĐ đều được hưởng lợi. Có nguồn thu cần lấy đó giúp đỡ người còn khó khăn, người có thai, nuôi con nhỏ, người chẳng may ốm đau bệnh tật, tai nạn hoặc có hoàn cảnh éo le ... coi đó là nghĩa vụ của doanh nghiệp. Trân trọng những đóng góp của người phụ nữ.

Nhờ có dân chủ mà NSDLĐ có được uy tín, có sự ảnh hưởng trong cộng đồng doanh nghiệp, tạo nên niềm tin của các đối tác; tạo nên thương hiệu có độ tin cậy cao hơn;

Quan hệ gần gũi, mật thiết giữa lãnh đạo với hệ quản lý, điều hành thì phải có dân chủ, lúc đó người quản lý điều hành sẽ dám nói, dám nghĩ, dám làm. Có dân chủ sẽ khai phóng tư tưởng, tự do thảo luận, tranh luận tìm ra chân lý; chỉ phục tùng chân lý, công nhận sự thật. Nhờ dân chủ mà hiểu được người lãnh đạo phải tham gia quản lý, người quản lý phải tham gia điều hành, người điều hành phải tham gia thực hành, thực hành phải có phản hồi, phản biện.

Nhờ có dân chủ thì sẽ khắc phục được quan liêu, thói quen áp đặt người khác, áp đặt cấp dưới, mệnh lệnh, từ đó hình thành ý chí, sức mạnh của tập thể; bảo đảm dân chủ và phát huy được dân chủ thì tự do hóa tư duy, trừu tượng, là một tác dụng vô cùng to lớn, kích thích mọi khả năng sáng tạo, nhất là đối với giới trí thức trong nghiên cứu khoa học.

Tài nguyên dạng vật chất là hữu hạn, tài nguyên có được từ dân chủ, sáng tạo, khai phóng, sáng kiến, giải pháp hữu ích ... tận tình chỉ bảo, dìu dắt, bổ sung kiến thức cho người còn yếu, động viên người có kiến thức kinh nghiệm là nguồn tài nguyên có thể khai thác vô tận.

Nhờ dân chủ người lao động trung thành lâu dài với doanh nghiệp kể cả khi gặp khó khăn vẫn tận tụy; còn người lãnh đạo quản lý điều hành sẽ tự phát hiện hoặc lộ ra những quyết định định hướng, quản lý điều hành còn lỗ hổng, thiếu sót hoặc sai trái, vô cảm ... để nhanh chóng điều chỉnh. Do vậy doanh nghiệp khoa học, kỹ thuật, công nghệ muốn phát triển phải dựa vào tính dân chủ, dựa vào người lao động.

Nhờ dân chủ doanh nghiệp còn tránh được nạn tư túi, trộm cắp lặt vặt, nhũng nhiễu đối tác, tham lam thèm muốn cái không phải của mình; Trừ những trường hợp bản tính sâu xa ngoan cố, cố tình làm sai để tư lợi, cực chẳng đã mới đem thảo luận dân chủ mà kỷ luật thích hợp. Nhờ dân chủ mà doanh nghiệp dám thẳng tay trừng trị nhưng kẻ vô liêm vô sỉ, ăn bám, trục lợi, tư túi, lợi dụng có ý đồ riêng tư. Khiến từng người đều đặt lợi ích của mình trong lợi ích của tập thể; lãnh đạo quản lý thì cung khiêm lắng nghe, gạn đục khơi trong, lấy ý hay, ý mới mà ghi nhận trong lòng, nhẹ nhàng chỉnh sửa, điều chỉnh những gì chưa phải, chưa đúng hoặc vô ý làm sai của người lao động.

Có dân chủ thì có đoàn kết, có đoàn kết thì có sức mạnh tri thức, có đồng lòng, đồng thuận, nảy sinh nhân tài khi có việc mới, việc khó... hiệp lực vào công việc phát triển kinh tế khoa học, kinh tế công nghệ, kinh tế kỹ thuật ... vì hạnh phúc, ổn định bền vững cho phát triển chung.

Dân chủ mở rộng và thực chất thì người lao động sẽ chủ động chủ quản công việc của mình. Dân chủ tránh được những quyết định vội vàng của người quản lý, người lãnh đạo, gây tổn thất về uy tín và tài chính cho doanh nghiệp.

Nhận thức sâu xa được đặc tính cơ bản của dân chủ người lãnh đạo sẽ không bị tự kiêu, tự ngạo, tự phụ, lộng ngôn, kẻ cả, coi khinh người khác; không hiểu phương pháp khoa học, không sát nắm vững kỹ thuật, xa rời thực tế, xa rời quần chúng ... coi người lao động là kẻ làm thuê làm mướn, dần dà xa đà đi tới chỗ vô liêm vô sỉ, ăn uống rượu chè không chừng độ, rượu say tự mãn nguyện; mất chí tiến thủ; thỏa lòng riêng trong chốc lát mà bốc đồng đứng trên bạn bè đồng nghiệp; không nhường nhịn người trên, coi rẻ kẻ dưới coi thường pháp luật; rồi kéo theo sự sụp đổ của doanh nghiệp.

IV. VỀ NGUYÊN TẮC DÂN CHỦ TẬP TRUNG

Đây là nguyên tắc dân chủ tập trung là cốt tử, căn bản, quan trọng mang tính then chốt trong mỗi tổ chức, doanh nghiệp và quản lý đất nước của Hồ Chí Minh; khác hoàn toàn với nguyên tắc tập trung dân chủ. Hoạt động trong lĩnh vực doanh nghiệp khoa học công nghệ cần nắm chắc nguyên tắc này để doanh nghiệp tồn tại bền vững, phát triển lâu dài, có hiệu quả.

Hồ Chí Minh diễn đạt nguyên tắc này là dân chủ thảo luận, tranh luận thẳng thắn, nói rõ và nói hết ý kiến, cùng nhau tìm tòi chân lý, đạt tới sự thống nhất nhận thức, phương pháp thực hành đó là dân chủ, từ đó xây dựng thành nghị quyết của tập thể gọi là tập thể lãnh đạo, đồng thuận phân công 1 người hoặc nhóm người phụ trách là tập trung. Như vậy tập trung là từng cá nhân và toàn bộ tổ chức tôn trọng nghị quyết, quyết định, chỉ thị, nguyên tắc, chấp hành mệnh lệnh chỉ huy của người phụ trách, đó là tập trung. Nói cách khác, dân chủ là xây dựng ý chí tập thể, tập trung là chỉ định người chỉ huy thực hiện ý chí đó.

Trong trường hợp vụ việc khẩn cấp, tình huống có vấn đề thì sử dụng khái niệm tập trung dân chủ nhưng vẫn luôn luôn nhấn mạnh dân chủ, tập trung trên cơ sở dân chủ. Vấn về sâu xa là ở chỗ, dân chủ không đối lập với tập trung, rất cần tập trung. Tập trung không đối lập với dân chủ, phải luôn luôn dựa trên cơ sở dân chủ. Dân chủ chỉ đối lập với quan liêu, chuyên chế, độc tài. Tập trung chỉ đối lập với phân tán, cục bộ, tự do vô tổ chức. Dựa trên dân chủ, xuất phát và hướng đích tới dân chủ thì sẽ có tập trung lành mạnh, không biến thành tập trung độc đoán, chuyên quyền, gia trưởng, chủ nghĩa cá nhân, anh hùng cá nhân, tôn thờ cá nhân tuy vậy không phủ nhận hạt nhân trong dân chủ.

Dân chủ vững vàng nhưng luôn đề cao tự phê bình và phê bình, tôn trọng ý kiến khác biệt, không đồng nhất thiểu số với sai lầm, bởi đa số không phải khi nào cũng đúng. Phải căn cứ vào thực tiễn, khi thực tiễn đã làm sáng tỏ sự thật đúng - sai thì phải xem xét lại các kết luận, không thành kiến với người có ý kiến thiểu số, mang ý kiến thiểu số vẫn có quyền bảo lưu. Hồ Chí Minh đã rất chú trọng những nguyên tắc đó và thực hành mẫu mực, có lý có tình, tôn trọng tổ chức, tôn trọng con người, tôn trọng nhân cách từng người. Đó cũng là tiêu biểu cho văn hóa dân chủ của Hồ Chí Minh.

V. ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH

Văn bản nêu trên cần được thảo luận trong khối lãnh đạo quản lý đến từng người lao động tới thấm nhuần từ tư tưởng đến thực hành dân chủ tập trung;

Trước nay nếu có sai sót từ Chủ tịch, các phó chủ tịch đến Viện trưởng, Giám đốc, các cấp phó thì cần gương mẫu thay đổi, sửa chữa, điều chỉnh, tự soi để làm gương.

Viện trưởng và Giám đốc lấy văn bản này kết hợp với Nghị định 149/2018 để cụ thể hóa trong doanh nghiệp bằng văn bản ngắn gọn dễ thực hiện;

Sau khi phản hồi, phản biện, góp ý, sửa chỉnh văn bản này sẽ được ban hành tồn tại song hành với Tổ hợp, bắt buộc thực hiện đến năm 2050.

 

Nơi nhận:

-Các phó chủ tịch;

-Viện trưởng, các viện phó;

-Giám đốc, các phó giám đốc;

-Các trưởng bộ phận tới người lao động.

Người thành lập và ban hành

T/M Hội đồng chủ tịch

 

 

 

Hoàng Sầm

 
[]