Thuốc Nam có khả năng kháng viêm, kháng Virut không?

Năm 2016, một Dược sỹ đại học có đặt hàng nghiên cứu với Viện y học bản địa Việt Nam một đề tài hết sức bình thường. Đơn đặt hàng đơn giản như sau:

  • Cấu trúc bài thuốc chủ yếu là thuốc Nam, hạn chế thuốc Bắc;
  • Cây thuốc trong bài dễ kiếm, dễ mua, rẻ tiền;
  • Chữa được ho, viêm họng, viêm phế quản thể nhẹ và trung bình;
  • Dễ sử dụng cho cả người lớn và an toàn với trẻ em.
  • Tăng sức đề kháng, chống tái phát tối đa;
  • Có chứng minh lâm sàng với cỡ mẫu = 30.

Vì mục tiêu đề tài không có tính mới, tính sáng tạo, tính đột phá nên Tôi, Giáo sư Lập, bàn nhau là không nên nhận, vì các yêu cầu của đề tài quá dễ, đối tượng sử dụng đại trà, phổ biến nên mất tính tiên phong, tính độc đáo, duy nhất. Nhưng cô dược sỹ nhiều lần yêu cầu khá tha thiết nên tôi bàn với giáo sư Lập, Tiến sỹ Trúc giao cho một nhóm sinh viên Đại học Dược do Nguyễn Thị Thức làm nhóm trưởng để đánh giá lâm sàng. Tất nhiên chỉ đạo nghiên cứu và bài thuốc phải là do mấy cựu giảng viên già dặn:

Thành phần bài thuốc:

  1. Húng chanh;                    5. Lá đại bi
  2. Lá xương sông;               6. Lá lược vàng
  3. Rau má;                           7. Cam thảo
  4. Rễ cây hế                        8. Hoàng kỳ

Bẵng đi một thời gian, năm 2021 bỗng cô Thức – khi này đã tốt nghiệp đại học được mấy năm – quay lại xin được chuyển giao đề tài mà chính cô học trò này đã chứng minh lâm sàng. Sản phẩm xi-ro được công bố dưới dạng thức phẩm bảo vệ sức khỏe với tên là LIULO (ý là líu lô) của công ty TGT do cô Thức làm giám đốc. Các báo cáo phản hồi từ thị trường là tốt, thế nhưng có 1 băn khoăn là nó có chống được Virut hợp bào đường hô hấp hay không, TGT đề nghị giải mã điểm này làm căn cứ để sử dụng cho thật đúng đối tượng. Mặc dù rất bận nhưng chúng tôi nhóm nghiên cứu viên Hoàng Sầm, Hoàng Nam và Nguyễn Tuấn phó viện trưởng đã cùng nhau xem xét lại các cơ sở khoa học của bài thuốc năm xưa. Thuốc được bào chế dạng xi-rô, chứng minh lâm sàng thấy hiệu quả tốt ≈ 89%, khá ≈11%, không có loại trung bình và kém hiệu quả. Đúng như dự đoán, mặc dù kết quả nghiên cứu rất khả quan nhưng khách đặt hàng không quay lại, do vậy chúng tôi cũng không tổ chức nghiệm thu.

Kết quả tóm tắt việc rà soát lại từng vị thuốc trong công thức như sau:

Tên thuốc Bằng chứng khoa học

Cây Lược vàng, địa

lan, tên khoa học:

Callisia fragrans

(Lindl.) Woods.

Phân đoạn chiết cồn ức chế sự phát triển của Virut

HSV1=16,5 µg/mL, HSV2= 15 µg/mL, VZV IC50=17 µg/mL.

Nguồn: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC2918872/

“Dựa theo kinh nghiệm ở liên bang Nga, Mexico, nhân dân ta

đã ứng dụng Lược vàng điều trị viêm họng, viêm phế quản…

Cách dùng đơn giản là lấy lá ăn sống hằng ngày và dùng

thân bò cắt ngắn ngâm rượu uống”. Nguồn: Võ Văn Chi,

2012, Từ điển cây thuốc việt nam, trang 575-576, Nhà xuất

bản Y học.

Cam thảo: Glycyrrhiza

uralensis Fisch

“Cam thảo có tác dụng giảm ho”, “ Cam thảo sống được

dùng chữa cảm, ho mất tiếng, viêm họng” – Đỗ Huy Bích và cs,

2006, trang 329, Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam,

Nhà xuất bản khoa học kĩ thuật.

Glycyrrhizae hoạt chất chính trong cam thảo có hoạt tính

chống Virut hợp bào hô hấp (HRSV). Ở nồng độ cao có thể

kích thích tiết IFN-β ức chế virus hoạt động, ức chế sự xâm

nhập của Virus, ức chế quá trình phiên mã mRNA, tổng hợp

Protein, sao chép bộ gen, lắp ráp và giải phóng virus. Nguồn:

https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC7126896/

Hoàng kỳ: Astragalus

membranaceus (Fisch)

Bunge

“Hoàng kỳ có tác dụng kích thích cơ thể sản sinh ra

Interferon là một Protein có tác dụng kháng Virut”; “ Trong một

dịch cảm cúm, uống hoặc nhỏ mũi cao nước hoàng kỳ cho

1000 người làm giảm tỉ lệ mắc bệnh và rút ngắn thời gian bị

bệnh nếu bị mắc. Uống 2 tháng, Hoàng kỳ làm tăng có ý

nghĩa hàm lượng IgA, IgG trong dịch tiết mũi của bệnh nhân

bị cảm lạnh”. Nguồn: Đỗ Huy Bích và cs, 2006, Cây thuốc và

động vật làm thuốc ở Việt Nam, tập 1, trang 949, Nhà xuất

bản khoa học kĩ thuật.

Rau má: Centella

asiatica (L.) Urb. in

Mart.

- “Ở Trung Quốc, rau má được dùng chữa các chứng bệnh

cảm mạo đau đầu, viêm Amidan…Nước hãm rau má được

dùng ở Ấn Độ và Madagasca để tăng cường sức khoẻ chung

cho bệnh nhân”. Đỗ Huy Bích và cs, 2006, Cây thuốc và

động vật làm thuốc ở Việt Nam, tập II, trang 585, Nhà xuất

bản khoa học kĩ thuật.

- Chiết xuất Metanol Rau má, dùng liều 200 mg/ kg trên

chuột cho thấy sự ức chế các chất trung gian gây viêm như

histamine, kinin, serotonin, prostaglandin. Đạt đỉnh sau 2 giờ

sử dụng. https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC3858007/

Húng chanh, tên khoa

học Plectranthus

amboinicus (Lour.)

Spreng.

Plectranthus amboinicus (Lour.) Spreng. là một loài thực vật

Labiatae bản địa của Đài Loan. Cây thường được sử dụng

trong y học dân gian Trung Quốc để điều trị ho, sốt, viêm

họng, quai bị và muỗi đốt. Húng chanh ức chế các chất trung

gian tiền viêm thông qua việc ngăn chặn sự kích hoạt

NF- κ B. do vậy giảm đau và viêm. Nguồn: Yung-Jia Chiu

cs, (2011), “Analgesic and Antiinflammatory Activities of the

Aqueous Extract from Plectranthus amboinicus (Lour.)

Spreng. Both In Vitro and In Vivo”, PMID: 21915187,

doi: 10.1155/2012/508137

rễ cây Hế, còn có tên

là Sơn đậu căn - tên

khoa học Sophora

onkinensis Gagnep

Có chứa 2 alkaloid quinolizidine, cùng10 alkaloid đã biết (1,

3-11),  các hợp chất thể hiện hoạt tính chống viêm mạnh

trong số đó, (-) - anagyrine (4), sophocarpine (8), 14β-

hydroxymatrine (10), và 7β-sophoramine (12) cho thấy các

hoạt động chống viêm In vitro mạnh hơn, và 5α, 14β-

dihydroxymatrine (2) , (-) - anagyrine (4), sophocarpine (8),

và 5α-hydroxymatrine (9) thể hiện tác dụng chống viêm in

vivo tốt hơn. Nguồn: Li-Jun He và CS, (2019) “uinolizidine

alkaloids from Sophora tonkinensis and their anti-

inflammatory activities”, PMID: 31682871

DOI: 10.1016/j.fitote.2019.104391

Đại bi: Blumea

balsamifera (L.) DC

Hợp chất trong cây Đại bi cho thấy tác dụng ức chế đáng kể

đối với Vi rút cúm A (H3N2) với giá trị IC 50 tương ứng là

46,23 μg / mL và 38,49 μg / mL; Các chất hóa học của Đại bi

chống lại rối loạn hô  hấp cho thấy rằng nó có thể là một

phương pháp điều trị tiềm năng chống lại bệnh Coronavirus

2019 (COVID-19), nhắm vào SARS-CoV-2Mpro, một loại

Enzyme đóng một vai trò quan trọng trong quá trình lây

nhiễm SARS-CoV -2. Đáng ngạc nhiên là 113 trong số các

chất hóa thực vật độc đáo là chất ức chế SARS-CoV-2 Mpro

đầy hứa hẹn, trong đó 12 loại thuốc kháng vi rút được phát

hiện lại từ cây này. Các chất ức chế SARS-CoV-2 Mpro gợi ý

về một dược chất tiềm năng của Enzyme đích. Tuy nhiên,

cần có các nghiên cứu sâu hơn. Nguồn:

https://doi.org/10.1080/14786419.2020.1861615

Cây xương sông -

Blumea lanceolaria

(Roxb)

Riêng cây xương sông chúng tôi sử dụng cho ho, viêm họng,

viêm phế quản theo kinh nghiệm cá nhân, ngoài ra còn dùng

cho giảm cân béo phì, đau các khớp, ngoài ra không tìm thấy

tài liệu nào nói về tác dụng này.

Tin rằng, những tài liệu tóm tắt được ở trên là còn sơ sài và thiếu, tuy nhiên, ít nhiều những tài liệu này đã cho thấy minh chứng lâm sàng và kết quả điều trị là có cơ sở.

Bác sỹ Hoàng Sầm.

 

[]